MangYTe

Tài liệu y khoa

Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội

Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội
  • Mã tin: 920
  • Ngày đăng: 05/02/2023
  • Gian hàng: mangyte  
  • Khu vực: Hà nội
  • Giá: Liên hệ
Bài viết Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội được nghiên cứu nhằm mô tả thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Nội dung Text: Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 THùC HµNH NU¤I CON B»NG S÷A MÑ TRONG 6 TH¸NG §ÇU CñA Bµ MÑ Cã CON D¦íI 24 TH¸NG TUæI T¹I X· NGäC HåI, HUYÖN THANH TR×, Hµ NéI Nguyễn Việt Dũng1, Huỳnh Nam Phương2, Trần Văn Long3, Lê Thị Hợp4 Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT) trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang với số mẫu 359 bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi của toàn xã được hỏi bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Có 66,6% các bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh; lý do chủ yếu các bà mẹ cho con bú lần đầu muộn là do mẹ mệt/ mổ đẻ (37,8%), do sữa mẹ chưa về (30,3%); có 7,5% bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho con bú lần đầu; tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu: 28%; trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn vì mẹ không đủ sữa (40,1%) và mẹ phải đi làm (29,6%); Chỉ có (22,3%) số bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ khi đi làm trở lại, còn lại phần lớn các bà mẹ cho trẻ ăn bột, cháo, sữa ngoài. Cần có các can thiệp truyền thông giáo dục và hướng dẫn thực hành cho các bà mẹ nuôi con bằng sữa của mình đúng cách. Từ khóa: Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, bú sớm sau sinh, bú mẹ hoàn toàn, trẻ dưới 24 tháng tuổi, Thanh Trì, Hà Nội. I. ĐẶT VẤN ĐỀ góp phần làm giảm 13% ca tử vong của Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là trẻ em dưới 5 tuổi. Cho trẻ bú sớm sau một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng giúp cho trẻ phát triển toàn diện cả về thể đầu sẽ làm giảm 22% các ca tử vong sơ chất, tinh thần và trí tuệ. Lợi ích của việc sinh [1]. Theo kết quả của Viện Dinh NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, dưỡng năm 2010, tỷ lệ NCBSMHT trong gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Sữa 6 tháng đầu ở Việt Nam còn thấp (19,6%) mẹ cung cấp cho trẻ những chất dinh [2]. Theo nghiên cứu của Trần Thị Phúc dưỡng cần thiết, những kháng thể chống Nguyệt và Hà Minh Trang (2012) tại xã bệnh tật giúp trẻ khoẻ mạnh. Cho trẻ bú Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà Nội mẹ có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ cho thấy tỷ lệ các bà mẹ cho con bú sớm nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh là và do đó làm giảm nguy cơ tử vong sơ 42,3%, tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước sinh. Theo ước tính của Quỹ Nhi đồng khi cho con bú lần đầu tiên là 10%, tỷ lệ Liên hợp quốc (UNICEF), bú mẹ trong 6 trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử đầu là 15,5% [3]. Một nghiên cứu khác vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên của Huỳnh Văn Dũng và Huỳnh Nam toàn thế giới. Tại Việt Nam, NCBSM sẽ Phương tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú ThS – Viện Dinh dưỡng Ngày nhận bài: 5/11/2018 1 Email: nguyenvietdung@dinhduong.org.vn Ngày phản biện đánh giá: 5/12/2018 2TS. – Viện Dinh dưỡng Ngày đăng bài: 25/12/2018 3ThS. – Viện Dinh dưỡng 4GS.TS. – Hội Dinh dưỡng VN 10

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 Thọ năm 2012 chỉ ra rằng có 46,7% trẻ cứu được bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau - Thời gian: Từ 12/2013 đến 5/2014. sinh, có 27,8% trẻ dưới 6 tháng tuổi được - Nghiên cứu được tiến hành tại xã bú sữa mẹ hoàn toàn, và tỷ lệ trẻ được cho Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội. ăn bổ sung đúng thời điểm là 65,2% [4]. 2.3. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt Ngọc Hồi là xã thuộc vùng ven huyện ngang Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, là nơi tập 2.4. Cỡ mẫu, cách chọn mẫu trung cụm công nghiệp của toàn huyện. - Cỡ mẫu: Toàn bộ bà mẹ có con dưới Cuộc sống người dân chịu sự ảnh hưởng 24 tháng tuổi của xã (đáp ứng các tiêu chí của đô thị hóa và công nghiệp hóa. Các chọn đối tượng nghiên cứu). bà mẹ đi làm công nhân nên có sự giao - Cách chọn mẫu: Lập danh sách tất cả thoa giữa các yếu tố nông thôn và thành các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi trong thị, giữa truyền thống, tập quán của địa xã (dựa trên danh sách theo dõi cân nặng phương và các chính sách xã hội mới và tiêm chủng mở rộng của trẻ) với sự được tăng cường. Để tìm hiểu rõ hơn và giúp đỡ của cán bộ Trạm Y tế. Chọn đối có được bức tranh tổng thể về thực trạng tượng điều tra đáp ứng tiêu chí. Phỏng NCBSM tại đây, nghiên cứu được tiến vấn trực tiếp đối tượng, trong trường hợp hành với mục tiêu: Mô tả thực hành cho đối tượng không thể hoàn thành trả lời trẻ bú sớm sau sinh và nuôi con bằng sữa phỏng vấn (vì lí do sức khỏe) hoặc vắng mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các nhà, điều tra viên hẹn quay trở lại để bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã phỏng vấn. Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội. 2.5. Phương pháp thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ tại hộ gia II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP đình, dựa trên bộ câu hỏi định lượng được NGHIÊN CỨU thiết kế sẵn để thu thập các thông tin về 2.1. Đối tượng nghiên cứu thực hành nuôi con bằng sữa mẹ. Các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi 2.6. Tiêu chuẩn đánh giá sống tại xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì ít Cách xác định một số tỷ lệ đánh giá nhất 6 tháng trước ngày điều tra. Tiêu thực hành NCBSM theo định nghĩa của chuẩn loại trừ: những bà mẹ gặp khó WHO và UNICEF: khăn về nói và trả lời, bị bệnh tâm thần + Tỷ lệ trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu và những đối tượng không đồng ý tham sau đẻ (hỏi hồi cứu cho toàn bộ trẻ 0-23 gia nghiên cứu. tháng tuổi) 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên Số trẻ

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 - 0 tháng tuổi: kể từ khi mới sinh đến 12 tháng 29 ngày. trước ngày tròn tháng (từ 1 đến 29 ngày). 2.7. Phân tích số liệu - 1 tháng tuổi: Kể từ ngày tròn một Số liệu được làm sạch và nhập vào tháng đến trước ngày tròn 2 tháng (từ 30 máy tính bằng phần mềm EpiData 3.1. ngày đến 59 ngày. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS - 12 tháng tuổi: từ tròn 12 tháng đến 18.0. III. KẾT QUẢ 3.1. Thực hành cho trẻ bú sớm và bú sữa non Bảng 1. Thời gian bà mẹ cho con bú lần đầu sau sinh (n=359) Thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh n Tỷ lệ (%) Trong vòng 1 giờ 239 66,6 Trên 1 giờ đến 24 giờ 103 28,7 Sau 24 giờ 16 4,5 Không nhớ 1 0,3 Kết quả bảng 1 chỉ ra rằng có 2/3 số bà mẹ (66,6%) cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh. Tỷ lệ các bà mẹ cho con bú trong thời gian từ 1 giờ đến 24 giờ là 28,7%, sau 24 giờ là 4,5% và chỉ có 1 bà mẹ không nhớ về thời gian cho con bú chiếm 0,3%. Bảng 2. Lý do bà mẹ cho con bú muộn (n=119) Lý do bà mẹ cho con bú muộn (>1 giờ) n Tỷ lệ (%) Mẹ mệt/ mổ đẻ 45 37,8 Con phải cách ly mẹ 21 17,6 Mẹ chưa có sữa 36 30,3 Cần làm sạch miệng trẻ bằng bài thuốc dân gian 17 14,3 Bảng 2 cho thấy lý do chủ yếu các bà 15%. Tuy nhiên, phần lớn các bà mẹ mẹ cho con bú lần đầu muộn là do mẹ được hỏi đều thực hành cho trẻ bú sữa mệt/ mổ đẻ (37,8%), do sữa mẹ chưa về non (92,5%). (30,3%), các lý do còn lại chiếm khoảng 3.2. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Biểu đồ 1. Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được NCBSMHT (n=50) 12

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 Biểu đồ 1 cho thấy trong số 50 bà mẹ mẹ hoàn toàn. Phần lớn các bà mẹ (72%) có con dưới 6 tháng tuổi được hỏi về ăn cho trẻ dùng thêm nước và thức ăn khác uống trong ngày hôm qua của trẻ thì chỉ như sữa ngoài, bột, cháo, nước hoa quả… có 14/50 bà mẹ (28%) đã cho con bú sữa Bảng 3. Thời gian bà mẹ bắt đầu cho con ăn thức ăn ngoài sữa mẹ (n=309) Thời gian cho trẻ ăn thức ăn ngoài sữa mẹ n Tỷ lệ (%) Dưới 3 tháng 18 5,8 3 tháng 26 8,4 4 tháng 63 20,4 5 tháng 45 14,6 ≥ 6 tháng 116 37,5 Không nhớ 41 13,3 Bảng 3 cho thấy có 152 trẻ được các lệ trẻ được ăn thức ăn ngoài sữa mẹ từ 6 bà mẹ cho ăn thức ăn ngoài sữa mẹ trước tháng trở lên đạt 37,5%. Còn lại 13,3% 6 tháng tuổi chiếm tỷ lệ khá cao 49,2%. các bà mẹ không nhớ tháng bắt đầu cho Trong đó có 18 trẻ được các bà mẹ cho ăn trẻ ăn thêm thức ăn ngoài sữa mẹ. từ rất sớm, trước 3 tháng tuổi (5,8%). Tỷ Bảng 4. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn ngoài sữa mẹ trước 6 tháng (n=152) Lý do cho trẻ ăn thức ăn ngoài sữa mẹ sớm n Tỷ lệ (%) Mẹ không đủ sữa 61 40,1 Tốt cho sức khoẻ của trẻ 40 26,3 Mẹ phải đi làm 45 29,6 Khác 6 3,9 Như vậy có tới 40,1% các bà mẹ cho rằng cho trẻ ăn sớm tốt cho sức khỏe của con ăn thức ăn ngoài sữa mẹ sớm vì cho trẻ (26,3%). Ngoài ra còn một vài lý do rằng mẹ không đủ sữa; tiếp đến là 29,6% khác với tỷ lệ thấp. số bà mẹ có lý do họ phải đi làm và cho Bảng 5. Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm trở lại (n=359) Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm n Tỷ lệ (%) Cho trẻ bú sữa mẹ 80 22,3 Cho trẻ bú sữa bột 111 30,9 Cho trẻ ăn bột/cháo 168 46,8 Bảng 5 chỉ ra rằng 46,8% các bà mẹ BÀN LUẬN khi đi làm trở lại cho trẻ ăn bột, cháo; Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh 30,9% số bà mẹ cho trẻ bú sữa ngoài và Kết quả nghiên cứu cho thấy có 66,6% chỉ có 22,3% số bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ số bà mẹ cho trẻ bú lần đầu trong vòng khi đi làm trở lại. một giờ sau khi sinh. Như vậy vẫn còn khoảng 1/3 số trẻ phải ăn uống thức ăn 13

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 khác sau khi chào đời và không được điều tra dinh dưỡng năm 2010 của Viện hưởng lợi từ bữa bú đầu tiên vô cùng quý Dinh dưỡng (76,2%) [2]. giá về mọi mặt này. Các lý do chính cản trở việc cho trẻ bú Các nghiên cứu về tỷ lệ các bà mẹ sớm sau sinh trong nghiên cứu có thể kể thực hành cho con bú trong vòng 1 giờ đến chủ yếu là do bà mẹ bị mệt/ mổ đẻ đầu sau sinh cho các kết quả khác nhau ở (37,8%), tiếp đến là do sữa mẹ chưa về các vùng và các nghiên cứu khác nhau. (30,3%). Kết quả nghiên cứu này cũng Tỷ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của cao hơn so với nghiên cứu của dự án Trần Thị Phúc Nguyệt tại xã Khánh Hà, A&T tiến hành tại 11 tỉnh năm 2011 huyện Thường Tín, Hà Nội. Cụ thể, lý do (66,6% so với 50,5%) [5]. bà mẹ cho con bú muộn do phải can thiệp Cũng tương tự, khi so sánh với một số y tế và sữa mẹ chưa về lần lượt là 37,1% nghiên cứu khác trong nước, cụ thể: và 39,5% [3]. Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh Thực hành cho trẻ bú sữa non nghiên cứu tại bệnh viện phụ sản bán Tỷ lệ thực hành cho trẻ bú sữa non công Bình Dương (29,7%) [6]; tác giả trong nghiên cứu của chúng tôi là khá cao Đinh Thị Phương Hòa tiến hành tại 4 (92,5%), chỉ có 7,5% bà mẹ vắt bỏ sữa bệnh viện ở Hà Nội năm 2006 (44,1%) non trước khi cho con bú lần đầu. Kết quả [7]; nghiên cứu của Trần Thị Phúc này cũng tương tự như nghiên cứu của Nguyệt tại xã Khánh Hà, Thường Tín, Hà Trần Thị Phúc Nguyệt tiến hành trên 220 Nội (42,3%) [3]; nghiên cứu của Bùi Thu bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Hương tại hai phường Quỳnh Mai và Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà Nội, Bạch Đằng, Hà Nội năm 2009 (30%) [8]; tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho Từ Mai thực hiện trên 300 bà mẹ có con con bú là 10% [3] và nghiên cứu của dưới 24 tháng tuổi đến khám tại Trung Zhang, Jingxu và cộng sự điều tra về các tâm khám tư vấn dinh dưỡng, Viện Dinh chỉ số nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưỡng năm 2008 (49,3%) [9]; nghiên cứu liên quan tới tình trạng dinh dưỡng trẻ em của Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam tại vùng nông thôn Trung Quốc năm Phương và cộng sự tại huyện Tam Nông, 2009, cho kết quả tỷ lệ trẻ bú sữa non Phú Thọ năm 2012 (46,7%) [4]. trong 3 ngày đầu sau khi sinh là rất cao, Tuy nhiên, kết quả trong nghiên cứu đạt 94% [12]. này thấp hơn kết quả của một số nghiên Tuy vậy, tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non cứu khác cùng lĩnh vực như: Nghiên cứu trong nghiên cứu này thấp hơn nhiều so mô tả cắt ngang của tác giả Lê Thị Hương với các nghiên cứu khác cùng lĩnh vực thực hiện năm 2008 tại huyện Hải Lăng, như: Nghiên cứu của Bùi Thu Hương tại tỉnh Quảng Trị cho kết quả tỷ lệ bà mẹ phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà cho con bú sớm trong vòng nửa giờ đầu Nội có 28% các bà mẹ vắt bỏ sữa non sau sinh là 88% [10]; Một nghiên cứu dọc trước khi cho trẻ bú lần đầu [8]; Nghiên tại huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa cứu mô tả cắt ngang của Lê Thị Hương khác cũng cho tỷ lệ bà mẹ thực hành cho được tiến hành trên 400 cặp bà mẹ, trẻ em con bú sớm sau sinh rất cao (98,3%) [11]. dưới 2 tuổi tại huyện Hải Lăng, tỉnh Kết quả này cũng thấp hơn so với tổng Quảng Trị có 36,3% bà mẹ vắt bỏ sữa 14

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 non trước khi cho con bú lần đầu [10]; 6 tháng đầu thấp hơn so với kết quả Tại Hà Nội nghiên cứu của tác giả Đinh nghiên cứu của chúng tôi đưa ra (20,2% Thị Phương Hòa cho biết tỷ lệ bà mẹ so với 28%). Đặc biệt, nhiều tỉnh trong không thực hành cho trẻ bú sữa non là dự án A&T có tỷ lệ NCBSMHT trong 6 khá cao so với nghiên cứu của chúng tôi tháng đầu rất thấp như: Khánh Hòa (36% so với 7,5%) [7]. Điều này cho thấy (0,6%), Đà Nẵng (3,5%), Cà Mau (6,5%) tỷ lệ thực hành cho trẻ bú sữa non của các và Tiền Giang (11,6%). Nguyên nhân tỷ đối tượng trên địa bàn nghiên cứu là lệ bú mẹ hoàn toàn thấp tại các tỉnh này tương đối tốt so với các nghiên cứu ở các được lý giải thay vì cho trẻ bú mẹ hoàn địa phương khác. toàn trong 6 tháng đầu thì các bà mẹ lại Thực hành NCBSMHT trong 6 cho trẻ uống nước, sữa bột và ăn bổ sung tháng đầu trong giai đoạn này [5]. Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nuôi con Tuy nhiên, theo kết quả điều tra giám bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sát dinh dưỡng năm 2010 của Viện Dinh ở trẻ 0 - 5 tháng tuổi là 28%. Kết quả này dưỡng kết hợp với tổ chức A&T và tương đồng với kết quả trong nghiên cứu UNICEF thực hiện trên toàn quốc thì tỷ tại huyện Tam Nông, Phú Thọ của Huỳnh lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu trong Văn Dũng và Huỳnh Nam Phương năm nghiên cứu này thấp hơn so với một số 2012: 27,8% [4]. Tuy nhiên, kết quả này tỉnh: Cao Bằng (44%), Hà Giang (56%), cao hơn so với nghiên cứu của Bùi Thu Hà Nam (31%), Hòa Bình (42%), Lào Hương năm 2009 tại hai phường Quỳnh Cai (30%), Quảng Nam 29%, Sơn La Mai và Bạch Đằng - Hà Nội, 23% [8] và (42%) [13]. Điều này cho thấy, các tỉnh nghiên cứu của tác giả Từ Mai triển khai có tỷ lệ NCBSMHT cao hơn đa số là các tại Trung tâm khám tư vấn dinh dưỡng, tỉnh miền núi, nhiều khả năng do việc tiếp Viện Dinh dưỡng năm 2008 trên 300 bà cận với các loại sữa công thức ít hơn. mẹ có con dưới 24 tháng tuổi đến khám, Trong khi phần lớn các tỉnh còn lại là có 16,2% [9]. Đồng thời, nghiên cứu cũng tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu thấp cho kết quả cao hơn so với kết quả nghiên hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng cứu mới đây của tác giả Trần Thị Phúc tôi (28%). Nguyệt thực hiện trên 220 bà mẹ tại xã Xem xét tỷ lệ NCBSMHT trong 6 Khánh Hà năm 2012, theo đó tỷ lệ NCB- tháng đầu với tỷ lệ của quốc gia và các SMHT trong 6 tháng đầu chỉ đạt 15,5% nước trên thế giới ta thấy: tỷ lệ NCB- [3]. Tuy vậy cũng cần hiểu rõ là ở nghiên SMHT trong 6 tháng đầu của nghiên cứu cứu này, tỷ lệ NCBSMHT được tính theo cũng cao hơn tỷ lệ chung toàn quốc theo định nghĩa của WHO 2010 là dựa trên số công bố mới nhất của Viện Dinh dưỡng trẻ từ 0 - 5 tháng tuổi được bú mẹ hoàn là 19,6% [2]. Đối với một số nước cụ thể, toàn trong ngày hôm qua, còn 1 số nghiên kết quả nghiên cứu này tương đồng với cứu trước đây có thể sử dụng các định nghiên cứu của Zhang tại Trung Quốc nghĩa khác để xác định tỷ lệ này. (28%) [12]; cao hơn so với nghiên cứu tại Với cùng cách tính tỷ lệ NCBSMHT, các nước Algeria (7%), Angola (11%), nghiên cứu thực hiện tại 11 tỉnh của A&T Belarus (9%), Nigeria (0,8%) và thấp hơn cũng cho kết quả tỷ lệ NCBSMHT trong so với Bangladesh (64%), Brazil (41%), 15

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 Cuba (49%), Uganda (63%), Nepal của chúng tôi là: trẻ bỏ bú (27,6%) và bà (68%) [14]. So sánh với các nước trong mẹ có vấn đề ở vú (11,5%) [5]. khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ bú mẹ hoàn Tỷ lệ các bà mẹ thực hành cho con bú toàn trong 6 tháng đầu của nghiên cứu sữa mẹ khi đi làm trở lại chỉ chiếm nằm ở mức độ trung bình, tỷ lệ này thấp 22,3%, tỷ lệ này là rất thấp so với phần hơn so với Campuchia, Timor-Leste, In- lớn các bà mẹ còn lại khi đi làm đều cho donesia, Philippines nhưng lại cao hơn trẻ ăn bột, cháo hoặc sữa bột. Việc các bà Thái Lan, Việt Nam, Myanmar và Lào mẹ cho trẻ dưới 6 tháng tuổi ăn uống các [14]. Qua đây có thể thấy rất rõ sự chênh thức ăn khác ngoài sữa mẹ sớm là không lệch về tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng tốt vì có nhiều nguy cơ gây nhiễm trùng đầu của các quốc gia trên thế giới. Điều cũng như rối loạn tiêu hóa đường ruột của này có thể lý giải do sự khác biệt về địa trẻ. Theo khuyến cáo của WHO chỉ nên lý, các phong tục tập quán trong chăm sóc bắt đầu cho trẻ ăn thêm thức ăn ngoài sữa và nuôi dưỡng trẻ nhỏ, thời điểm nghiên mẹ khi trẻ đạt 6 tháng tuổi trở lên. cứu, cách chọn mẫu cũng như cỡ mẫu nghiên cứu ở mỗi nơi là khác nhau. IV. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, có nhiều lý do 1. Thực hành cho trẻ bú sớm và bú dẫn tới việc các bà mẹ không thực hiện sữa non NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu, Có khoảng 66,6% các bà mẹ cho con trong đó phần lớn lý do các bà mẹ đưa ra bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh. Lý là không đủ sữa (40,1%) và mẹ phải đi do chủ yếu các bà mẹ cho con bú lần đầu làm (29,6%). Nghiên cứu của tác giả Trần muộn là do mẹ mệt/ mổ đẻ (37,8%), do Thị Phúc Nguyệt trên 220 bà mẹ tại xã sữa mẹ chưa về (30,3%). Khánh Hà, Thường Tín, Hà Nội cũng chỉ Phần lớn các bà mẹ được hỏi đều thực ra rằng 2 nguyên nhân ở trên là nguyên hành cho trẻ bú sữa non (92,5%). nhân chủ yếu khiến các bà mẹ không thực 2. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hiện NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Tuy hoàn toàn trong 6 tháng đầu nhiên các tỷ lệ trong nghiên cứu cắt Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được NCB- ngang của Trần Thị Phúc Nguyệt là cao SMHT là 28%. Trở ngại chính khiến trẻ hơn so với nghiên cứu của chúng tôi đưa không được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn ra, cụ thể: lý do bà mẹ không đủ sữa là vì mẹ không đủ sữa (40,1%) và mẹ phải 61,3% và mẹ phải đi làm 57,5% [3]. đi làm (29,6%). Chỉ có khoảng 22,3% số Nghiên cứu A&T tiến hành tại 11 tỉnh bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ khi đi làm trở trên toàn quốc lại chỉ cho kết quả tương lại, còn lại phần lớn các bà mẹ cho trẻ ăn đồng với nghiên cứu này ở lý do bà mẹ bột, cháo, sữa ngoài. không đủ sữa (40,2%), trong khi đó lý do các bà mẹ đưa ra là phải đi làm trở lại KHUYẾN NGHỊ chiếm tỷ lệ rất thấp, 1,2%. Tuy nhiên có Cần tăng cường công tác tuyên truyền, hai lý do khác mà nghiên cứu A&T đưa giáo dục truyền thông về nuôi con bằng ra là nguyên nhân dẫn tới việc các bà mẹ sữa mẹ (lợi ích của NCBSM, cho trẻ bú không thực hành NCBSMHT trong 6 sớm và bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là khác biệt so với nghiên cứu tháng đầu sau sinh) cho phụ nữ trong độ 16

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 tuổi sinh đẻ và cộng đồng thông qua việc bú sớm ngay sau khi đẻ. Bộ Y tế, Hà Nội. sử dụng đa dạng các kênh truyền thông 8. Bùi Thu Hương (2009). Kiến thức và thực phù hợp cho các đối tượng. hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ tại phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà TÀI LIỆU THAM KHẢO Nội năm 2009. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ 1. UNICEF (2007). Breastfeeding within Y khoa, trường Đại học Y Hà Nội, Hà one hour of birth can significantly reduce Nội. infant mortality in Viet Nam. 9. Từ Mai (2009). Thực trạng nuôi con bằng 2. Viện Dinh dưỡng (2010). Tổng điều tra sữa mẹ và một số yếu tố liên quan của các dinh dưỡng 2009-2010. Nhà xuất bản Y bà mẹ đến khám tại Trung tâm khám tư học, Hà Nội. vấn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng, Hà Љ3.Trần Thị Phúc Nguyệt và Hà Minh Trang Nội. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, (2014). Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 5(2), tr. 39-47. của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi 10.Lê Thị Hương (2008). Kiến thức, thực tại xã Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng Nội. Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Hải 10(3), tr. 117-122. Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tạp chí Dinh 4. Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương dưỡng & Thực phẩm, 4(2), tr. 40-48. và Cs (2014). Tình trạng dinh dưỡng của 11.Dat, D. V., Colin, B. W. and Andy, L. H. trẻ dưới 24 tháng tuổi và thực hành nuôi (2004). Breastfeeding initiation and ex- trẻ của bà mẹ tại huyện Tam Nông, tỉnh clusive breastfeeding in rural in Viet Nam. Phú Thọ năm 2012. Tạp chí Dinh dưỡng Public health nutrition, 7(6), pg.795-799. & Thực phẩm, 10(4), tr. 116-123. 12.Zhang, Jingxu. et al. (2009). An infant and 5. Alive and Thrive và Viện Nghiên cứu Y child feeding index is associated with xã hội học (2012). Báo cáo toàn văn thực child nutritional status in rural China. hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Early human development, 85, pg. 247- Hà Nội. 252. 6. Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh 13.Viện Dinh dưỡng, Alive and Thrive và (2010). Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ UNICEF (2010). Thông tin dinh dưỡng trong thời gian nằm viện sau sinh tại bệnh năm 2010. Hà Nội. viện phụ sản nhi đồng bán công Bình 14.UNICEF (2014). Infant and Young Child Dương năm 2009. Tạp chí Y học Thành Feeding Indicators. Access date Phố Hồ Chí Minh, 14(2), tr. 366 - 370. 26/10/2014, from http://data.unicef.org/ 7. Đinh Thị Phương Hoa (2006). Kiến thức, nutrition/iycf. thực hành của bà mẹ về giữ ấm và cho trẻ 17

TC. DD & TP 14 (6) – 2018 Summary BREASTFEEDING PRACTICES IN THE FIRST 6 MONTHS OF MOTHERS WITH CHILDREN UNDER 24 MONTHS OLD IN NGOC HOI COMMUNE, THANH TRI DISTRICT, HA NOI. A cross sectional study was conducted to describe practices of early initiation of breast- feeding and exclusive breastfeeding in the first 6 months of mothers with children under 24 months old in Ngoc Hoi commune, Thanh Tri district, Ha Noi. The sample size of 359 mothers having children under 24 months old in the whole commune was interviewed by a questionnaire form. The results showed that 66.6% of mother initiated early breastfeed- ing within 1 hour after delivery; the reasons of late initiation were that mother was tired/ or had a cerasian session (37.8%), milk did not come down yet (30.3%); 7.5% mother dis- carded colostrum before giving the first breastfeeding; the percentage of children having exclusive breastfeeding in the first 6 months was 28%; children, who were not having ex- clusive breastfeeding, was due to insufficient breastmilk (40.1%) or mother had to go back to work (29.6%); Only 22.3% of mother still provided breastfeeding when came back to their work, while most of them started to feed children porridge or formula. It is needed to provide information, education and guidance for mothers on breastfeeding properly. Keywords: Breastfeeding practice, early initiation of breast feeding, exclusive breast- feeding, children under 24 months old, Thanh Tri, Hanoi 18

Mạng Y Tế
Nguồn: https://tailieu.vn/doc/thuc-hanh-nuoi-con-bang-sua-me-hoan-toan-trong-6-thang-dau-cua-ba-me-co-con-duoi-24-thang-tuoi-tai-x-2569808.html
1  ... Tiếp » 
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY