Nắm được vị trí của mỗi cơ quan trong trung thất sẽ giúp chẩn đoán nguyên nhân bệnh chính xác hơn. Bao trùm lên hầu như toàn bộ bệnh học của trung thất là hội chứng chèn ép trung thất mà nguyên nhân cơ bản là các u trung thất (khoảng 90% ca bệnh); sau đó (tần số xuất hiện nhỏ hơn rất nhiều) là viêm trung thất cấp.
Trong "Bách khoa thư bệnh học" của NXB Giáo dục, Giáo sư Hoàng Đình Cầu đã mô tả các bệnh trung thất chi tiết dưới đây:
Trung thất là một khoang chật hẹp của lồng ngực, có 4 thành: thành trước gồm xương ức và đầu trước các xương sườn, thành sau gồm cột sống lưng và đầu sau của các xương sườn, hai thành bên là mặt trong hay mặt trung thất của hai phổi phải và trái, mặt dưới tiếp giáp với cơ hoành, phía trên là vùng cổ. Trung thất chia làm 3 phần: trước, giữa và sau.
Ở trung thất trước có tuyến ức, các mạch lớn (động mạch chủ lên, động nạch phổi, tĩnh mạch chủ trên…). Ở trung thất giữa có khía quản, các phế quản gốc, tim, các mạch lớn, dây thần kinh và mạch máu (dây thần kinh phế vị, dây thần kinh giao cảm, động mạch chủ ngực, ống bạch mạch ngực...).
Do vị trí sắp xếp của các cơ quan, người ta còn chia trung thất trước thành 3 tầng: tầng trên, giữa và dưới. Thực quản, các dây thần kinh và mạch máu đi qua trung thất từ trên xuống dưới, phía trên thông với vùng cổ, phía dưới qua các lỗ và khe của cơ hoành thông với vùng bụng. Giữa các thành phần đó là các mô lỏng lẻo và các hạch lympho, được tập trung thành từng đám hay chuỗi dọc theo các tạng.
Các cơ quan ở trung thất có các biểu hiện bệnh riêng nhưng vì cùng ở trong một khoang có kích thước nhất định nên các biến đổi về khối lượng của mỗi cơ quan sẽ lấn sang vị trí của các cơ quan lân cận, chèn ép lẫn nhau và sẽ biểu hiện ra ngoài bằng các dấu hiệu lâm sáng mượn của cơ quan lân cận.
Nắm được vị trí của mỗi cơ quan trong trung thất sẽ giúp chẩn đoán nguyên nhân bệnh chính xác hơn. Bao trùm lên hầu như toàn bộ bệnh học của trung thất là hội chứng chèn ép trung thất mà nguyên nhân cơ bản là các u trung thất (khoảng 90% ca bệnh); sau đó (tần số xuất hiện nhỏ hơn rất nhiều) là viêm trung thất cấp.
1. U TRUNG THẤT
Các u trung thất, nguyên phát hay thứ phát, ác tính hay lành tính, đều biểu hiện ra ngoài bằng hội chứng chèn ép trung thất. Nói chính xác hơn là chèn ép các cơ quan lân cận mà các biểu hiện lâm sàng sớm nhận thấy hơn.
Thời kì đầu, bệnh xảy ra âm thầm, lặng lẽ, không rõ thời điểm bắt đầu. Bệnh có thể được phát hiện trong các bối cảnh sau: Ngẫu nhiên trong khi khám sức khỏe định kì. Chụp X quang phát hiện một hình ảnh bất thường ở vùng trung thất của bệnh nhân. Cũng có khi bệnh nhân đến khám do có triệu chứng bất thường ở bộ máy hô hấp: ho, khó thở, khản tiếng, đau ngực, hoặc ở bộ máy tiêu hóa: nuối thấy nghẹn, vướng cổ, vv. Thực chất các triệu chứng này xuất hiện chậm, báo hiệu một biến chứng.
Lâm sàng
Hội chứng chèn ép trung thất:
Khám lâm sàng không phát hiện được dấu hiệu đặc thù. Hội chứng chèn ép trung thất đa dạng tùy thuộc theo bộ phận bị chèn ép. Hội chuwnsgc hèn ép tĩnh tĩnh mạch chủ trên có 3 dấu hiệu đặc biệt: xanh tím môi, gò má, tai, biểu hiện rõ ràng hoặc kín đáo, chỉ thấy lúc bệnh nhân gắng sức, ho hoặc cúi người về trước. Tuần hoàn bàng hệ biểu hiện dưới hình thức giãn tĩnh mạch đồng đều hoặc giãn mao mạch ở phần ngực trên, trước bên hoặc vùng giữa ngực hoặc quanh đáy ngực, có thể ở cả các chi trên hoặc thành bụng.
Phù xuất hiện chậm ở mặt, cổ, các vai, làm đầy hố trên đòn, phù cứng hoặc chun giãn nhưng lúc ấn không lõm. Hiếm gặp loại phù xanh xanh tím mặt – cổ - ngực kiểu áo choàng (áo khoác).
Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên thường gặp ở các u trung thất trước, ít gặp hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ dưới: gan to, côt trướng, phù các chi dưới. Hội chứng chèn ép dây thần kinh giao cảm cổ hay hội chứng Claude Bernard – Horner: sa mí mắt, lõm mắt, co đồng tử, rối loạn vận mạch da ở nửa mặt bên, đau và phù đỏ nửa mặt, tiết nhiều mồ hôi, xảy ra do các khối u của trung thất sau. Chèn ép các dây thần kinh khác như dây hoành gây liệt vòm hoành bị nâng lên trên hoặc dây phế vị gây rối loạn hô hấp, chảy nước dãi, tăng huyết áp, chèn ép dây thần kinh liên sườn gây đau ngực, chèn ép dây thần kinh quặt ngược trái do khối u trung thất giữa gây khàn tiếng: soi thanh quản, thấy dây thanh dưới trái liệt, dạng ra ngoài, chèn ép thực quẩn trong các khối u trung thất sau gây khó nuốt.
Các xét nghiệm cận lâm sàng:
Khám X-quang cho biết sớm các dấu hiệu chính xác quan trọng: chụp theo thế đứng thẳng và đứng ngang thấy các hình dậm đặc cho biết sớm các dấu hiệu chính xác quan trọng: chụp theo thế đứng thẳng và đứng ngang thấy các hình đậm đặc cho biết vị trí và kích thước của các u. Chụp X-quang có bơm khí cho biết sự tương quan của u với cơ quan lân cận.
Chụp X-quang cho phép định vị khối u ở trung thất. Nếu có điều kiện thì chụp X-quang cắt lớp tỉ trọng. Chụp mạch nếu có nghi ngờ về mối tương quan của khối u với các mạch máu trong trung thất. Các xét nghiệm khác được tiến hành tùy tình hình của khối u để xác định bản chất của nó.
Chẩn đoán phân biệt với các bóng đậm đặc xuất phát từ ngoài trung thất: Bệnh phình của quai động mạch chủ có thể cho một lớp bóng đen ở các tầng của trung thất (đặc biệt trong các trường hợp có các lớp máu cục làm cho vùng cung động mạch không đập thì chẩn đoán lại càng khó khăn). Chụp mạch có bơm chất cản quang sẽ giúp chẩn đoán chính xác hơn. Các bệnh xuất phát từ thành lồng ngực như apxe pott ở cột sống, u của thành ngực, tràn dịch màng phổi khu trú, có dạng một khối u. Thoát vị cơ hoành: xác định bằng chụp X-quang có uống chất cản quang và bơm khí vào màng bụng.
Chẩn đoán nguyên nhân của khối u dựa vào vị trí của bóng đậm đặc, có thể gợi ý về nguyên nhân của u và làm các xét nghiệm bổ sung cần thiết để xác định chẩn đoán.
Trong 30 trường hợp u trung thất mổ tại Viện Chống lao và Bệnh phổi từ năm 1976-81 thì có: 17 u quái và u nang bì, 10 u thàn kinh, 2 u tuyến ức (có 2 ung thư) , u tuyến giáp trong ngực (có 1 ung thư).
2. U TUYẾN GIÁP
Loại cổ ngực hay bướu chìm: kéo dài vào trong lồng ngực (85% tổng số các ca)
Loại bướu trong lồng ngực, lạc chỗ: bướu này có thể ở thấp, xuống đến tầng giữa hay tầng dưới của trung thất trước, hoặc ở trung thất sau. Chẩn đoán bướu giáp cổ - ngực không khó lắm.
Dấu hiệu nhận biết bệnh:
Thông thường, mỗi khi bệnh nhân nuốt thì bướu ở dưới lại trồi lên trên xương ức. Bướu giáp trong lồng ngực thường phát triển âm thầm, lặng lẽ một thời gian dài.
Trong kì kiểm tra sức khỏe, ngẫu nhiên thấy 1 hình đậm đặc nằm trong trung thất trước – trên, ở sau xương ức và trước khi quản. Soi X quang, hình đậm đặc này sẽ do chuyển theo động tác nuốt của bệnh nhân.
Các dấu hiệu lâm sàng xuất hiện chậm, lúc bướu đã phản ứng lớn, chèn ép các cơ quan quanh như chèn ép dây thần kinh quặt ngược làm bệnh nhân khàn tiếng ( 10-25% các trường hợp), chèn tĩnh mạch chủ trên ( hiếm xảy ra), chèn khí quản, vv Chụp nhấp nháy với 1131 có thể phát hiện rõ bướu (iot phóng xạ ngấm vào tuyến giáp không thường xuyên, lúc có, lúc không). Loại bướu giáp này dễ bị ung thư hóa, do đó sau khi chẩn đoán xác định nên mổ cắt bỏ sớm.
3. U TUYẾN ỨC
U tuyến ức phát triển từ các di tích của tuyến ức không thoái triển hết. U tuyến ức thường gây bệnh nhược cơ, hiện tượng tự miễn dịch. Trong cơ thể xuất hiện các tự kháng thể chống cơ vân, tác động đến các sinap thần kinh- cơ, làm mất trương lực cơ, gây liệt cơ. Chụp X-quang có bơm khí có thể làm rõ hình thể của u. Trên phim cắt lớp, u tuyến ức có hình một đám mât đen mờ xiên xuống dưới và ra trước, hình giống quả chuối. Sau chẩn đoán, nên cắt bỏ sớm, vì có nhiều khả năng ung thư hóa tiềm tàng.
4. U PHÔI
U phôi có 2 loại là:
U phôi đồng loại gồm nang từ phế quản (bóng mờ tròn hay hình trái xoan, đồng đều, bờ rõ ràng, ở vùng ngã ba khí quản, không di động theo động tác nuốt); u nang màng phổi - màng tim (bóng mờ tròn hay hình trứng, ở cạnh tim và phần trước – dưới của trung thất); u nang thực quản.
U phôi dị loại gồm u quái và u nang bì. Các u này phát triển từ các di tích phôi, bên trong u có bã nhờn, lông, răng, sụn, xương,vv.
Các dấu hiệu lâm sàng nghèo nàn hầu như không nhận thấy, trừ khi u phát triển, lớn và có biến chứng ( vỡ nang, nhiễm khuẩn, ung thư hóa). Trên các phim X-quang, xuất hiện một bóng mờ không đồng đều có giới hạn rõ rệt, trong một số trường hợp có ngấm vôi, có thể thấy một số mẩu xương... Sau chẩn đoán, nên cắt bỏ sớm.
5. U MỠ
U mỡ: U lành tính có thể có kích thước lớn, tạo nên một bóng mờ đều, nhiều khi trùm lên cả bóng của tim.
Bệnh hạch lympho trung thất: Các hạch to lên, tập trung thành nhóm doch theo khí quản (trước sau, mặt bên), ở rốn phổi phải và trái, ở ngã ba khí quản. Trên phim X quang, thấy các bóng đen đồng đều, có bờ rõ rệt, bóng hình tròn hoặc có nhiều vòng cung nếu có nhiều hạch chồng lên nhau. Nguyên nhân của các hạch to này có thể là: sơ nhiễm lao ở trẻ em và thanh niên (nguyên nhân quan trọng); bệnh Hodgkin ở tầng trên của trung thất, dọc theo hai mặt bên của khí quản, thông thường thấy có các hạch nông ở một hoặc hai bên đáy cổ, hạch di động dễ dàng, cứng, lan nhanh sang các nhóm hạch ở vùng khác, các ung thư biểu mô như ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư phế quản – phổi, ung thư tinh hoàn, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư bộ máy tiêu hóa, ung thư tuyến mang tai… Bệnh Besnier Boeck – Schaumann với các hạch ở xung quanh các phế quản (ở tầng giữa).
6. U THẦN KINH
U thần kinh:
phát triển từ các bộ phận thần kinh ở sát gần cột sống hoặc ở trong cột sống có hình quả bầu nậm, phát triển qua lỗ sống ra ngoài. U có hình ảnh X-quang đặc biệt, đám đạm đặc phồng đều, tròn, bờ rõ rệt, ở trong máng sườn - sống, trên phim đứng bên, hình ảnh chồng lên cột sống.
Thông tường, u thần kinh không có dấu hiệu lâm sàng nào đặc hiệu giúp cho chẩn đoán. Sau chẩn đoán, cần cắt bỏ khối u. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật để cắt bỏ các khối u, phẫu thật được thực hiện ở các cơ sở ngoại kho có điều kiện tốt về tổ chức, trang thiết bị, cán bộ kĩ thuật.
Viêm trung thất cấp:
là nhiễm khuẩn mô liên kết lỏng lẻo, ở trung thất, bao quanh các cơ quan trong trung thất. Nhiễm khuẩn rất nặng, tiến triển nhanh, có thể gây tử vong nhanh chóng.
Nguyên nhân nhiễm khuẩn tại chỗ:
Từ một nhiễm khuẩn của thực quản hay khí quản do chấn thương (bị vật nhọn chọc thủng, hóc xương) hoặc do nhiêm mạc xây xước (vì nội soi), ổ nhiễm khuẩn này lan rộng dần xuyên qua các lớp còn lại của thực quản đột nhập trung thất và gây nhiễm khuẩn trung thất.
Ngoài ra ổ nhiễm khuẩn có thể ở sát trung thất lan đến, ví dụ ở màng tim, màng phổi, phổi và ổ viêm xương – tủy xương ức, viêm xương – tủy đốt sống... Nhiễm khuẩn từ xa đến như từ cổ xuống trung thất theo lớp mô ở giữa các lớp cơ, từ ổ bụng lên trung thất theo đường bạch mạch (viêm màng bụng, apxe dưới cơ hoành).
Giải phẫu bệnh
Giai đoạn đầu: phản ứng viêm nhẹ, lan tỏa đến mô liên kết và bạch mạch của trung thất, các mô này phù, cương tụ máu, các hạch lympho trung thất sưng to.
Giai đoạn hai: Nếu điều trị không kịp thời và có kết quả, viêm phát triển, tạo thành phản ứng viêm xuất tiết và làm mủ. Mủ có thể lan rộng ra toàn bộ mô liên kết của trung thất hoặc khu trú gọn lại thành một apxe.
Lâm sàng: Viêm trung thất diễn biến rầm rộ ngay từ đầu. Bệnh cảnh tùy thuộc tác nhân gây bệnh. Bệnh nhân bị hội chứng nhiễm khuẩn nặng, tiến triển nhanh như sốt cao, kèm theo rét run, vật vã, ho khan, khó thở, mặt tím tái, mạch đập nhanh trên 120 lần/ phút, đau, có khi đau dữ dội ở xương ức, có thể xuất hiện phù ở đáy cổ, trên xương ức, khí thủng dưới da, sờ nắn nghe được tiếng lạo xạo khi nếu như thủng thực quản.
Chụp X-quang lồng ngực: Trung thất giãn rộng, nhất là khoảng ngang hai rốn phổi, độ đậm đặc đều, hai bờ bên của trung thất mờ, không rõ. Nếu có thủng thực quản thì thấy tràn khí trung thất, trong một số trường hợp kèm theo tràn dịch màng phổi. Chú ý các ngoại vật đã gây tổn thương thực quản, khí quản.
Soi thực quản: để biết tình trạng của thực quản, vị trí tổn thương, nếu có thể, gắp dị vật còn mắc ở thực quản.
Tiến triển: Viêm trung thất tiến triển rất nhanh, dẫn đến nhiễm khuẩn huyết, hoặc nhiễm khuẩn – mủ huyết và tử vong.
Điều trị:
Viêm trung thất thuộc loại bệnh phải điều trị cấp cứu và tích cực: hồi sức cấp cứu, nâng cao thể trạng, trấn an tinh thần cho bệnh nhaanh, cho kháng sinh liều cao dựa theo kháng sinh đồ, nhanh chóng mở dẫn lưu trung thất, hút liên tục theo áp suất nhẹ qua ống dẫn lưu. Nếu có vết thương của thực quản mà chưa khâu nối lại được thì dãn lưu đầu trên, làm thủ thuật mở thông dạ dày để nuôi dưỡng bệnh nhân.
Dự phòng: Viêm trung thất thường do nhiễm khuẩn từ vết thương của thực quản, nguyên nhân của các vết thương là hóc xương các, xương gà, mảnh vụn của xương lợn, bò... Trong khi ăn cá hay thịt, cần lưu ý để tránh hóc xương. Trong soi thực quản và khí quản cần thao tác nhẹ nhàng để không làm xây xát niêm mạc và thành của các bộ phận này.
Viêm xơ trung thất: là bệnh gây xơ mô liên kết trung thất, với các dấu hiệu chèn ép tĩnh mạch chủ trên hoặc các cơ quan khác trong trung thất. Bệnh mạn tính, nguyên nhân chưa rõ. Một số tác giả cho là do loại nấm Histoplasma capsulatum. Nấm này chủ yếu gây viêm phổi hay hệ thống lưới – nội mô (với các dấu hiệu: sốt, gầy, lách to, giảm bạch cầu). Bệnh chưa thấy ở Việt Nam
Thu Hương
Theo chuyên đề Sức Khỏe Gia Đình