Cây ké đầu ngựa là cây mọc hoang khắp các bãi đất, bờ ruộng, lề đường… nhưng đây lại là “thần dược” trị được nhiều bệnh rất hiệu quả.
Cây ké đầu ngựa là cây mọc hoang khắp mọi miền nước ta, thường thấy ở các bãi đất hoang, bờ ruộng, bờ đường. Rất nhiều người lớn lên ở vùng nông thôn đều đã từng gặp loại cây dại này. Trẻ em thường hay hái chúng và xem như một món đồ chơi.
Cây còn có tên khác là thương nhĩ tử, xương nhĩ, thương nhĩ, phắc ma, mac nháng (Tày). Tên khoa học: xanthium strumarium L., họ Cúc (Asteraceae). Cây ké đầu ngựa là cây bụi nhỏ cao khoảng 1-2 mét, thân cây có khía rãnh, lá mọc so le, phiến lá hơi ba cạnh, mép lá có răng cưa, có lông cứng ngắn, cụm hoa hình đầu gồm hai loại: cụm hoa đực nhỏ ở ngọn cành, to 5-6mm; cụm hoa cái cao khoảng 10mm, mang 2 hoa cái trong 2 ô, tròn, không có lông mào.
Quả ké đầu ngựa thuộc loại quả bế kép hình trứng, có vỏ (thực chất là lá bắc) rất cứng và dai, có hai ngăn, mỗi ngăn là một quả thật hình thoi dài 1,5cm. Trái có móc có thể móc vào lông động vật hay tóc người rất khó gỡ ra…
Theo Đông y, ké đầu ngựa vị ngọt, tính ôn, có ít độc; vào kinh phế, can. Có tác dụng khu phong chỉ thống, trừ thấp sát khuẩn. Dùng trị nhức đầu do phong hàn, viêm mũi, chảy nước mũi, chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, đau đầu do phong hàn, chân tay co rút, đau khớp do phong thấp.
Trong y học, ké đầu ngựa được dùng rất phổ biến làm thuốc uống chống bướu cổ ở những vùng có bệnh, trị ra mồ hôi, hạ nhiệt và an thần, trị thấp khớp và cảm lạnh.
Quả và hạt ké đầu ngựa phơi khô và tán nhỏ được đưa vào thành phần thuốc mỡ dùng ngoài trong một số bệnh về da như eczema, ngứa, vết sâu bọ cắn và ghẻ. Ngoài ra, quả ké đầu ngựa chứa nhiều vitamin C, làm mát và dịu viêm trong y học dân gian và có hiệu quả chữa bệnh đậu mùa, chữa viêm tấy, dầu ép từ quả chữa bệnh về bàng quang, bệnh herpes và bệnh viêm quầng do liên cầu. Tro của quả được bôi vào những chỗ đau trên môi niêm mạc miệng.
Lá ké đầu ngựa có tác dụng làm săn, lợi tiểu, làm thay đổi sự dinh dưỡng, chống bệnh gian mai và cũng được dùng trong lao hạch và herpes. Rễ ké đầu ngựa là cất bổ đắng được dùng trị ung thư và lao hạch. Cao rễ được dùng tại chỗ trị vết loét, mụn nhọt, áp-xe.
Còn theo Tây y, thành phần hóa học của loại quả này có nhiều iod và vitamin C (đặc biệt trong lá 47mg/100g lá). Quả non có nhiều vitamin C và các glucoza, B sintosterol và B DglucoziDl có tác dụng chống viêm.
Các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy, hạt ké đầu ngựa có tỷ lệ dầu béo cao hơn 30-35%, có tác dụng gây ức chế thần kinh trung ương, kháng khuẩn gam âm, kháng nấm. Cồn rễ giảm trọng lượng khối u và tăng thời gian sống. Trong lâm sàng ứng dụng thành phần iod để chữa các bệnh thiếu iod như bướu cổ đơn thuần.
Một số bài thuốc chữa bệnh của cây ké đầu ngựa:
Chữa bướu tuyến giáp: Ké đầu ngựa 2.000g, cho vào thùng cùng với 5 lít nước đun thật kỹ, khi còn 2 lít nước thì bỏ bã, lọc kỹ nước thuốc, sau đó cho vào đun tiếp cho đến khi nước cô lại còn khoảng 1 lít là được. Mỗi ngày uống ngày 2 lần, mỗi lần nửa thìa cà phê pha với nước đun sôi để nguội, uống sau khi ăn cơm. Trong thời gian uống thuốc thì không được ăn thịt lợn.
Chữa viêm xoang:
Bài thuốc trị Viêm xoang mũi, chảy nước mũi, viêm mũi: Ké đầu ngựa 8g, bạch chỉ 12g, tân di 8g, bạc hà 4g. Đem tất cả các vị thuốc sắc uống hàng ngày.
Bài thuốc chữa viêm xoang, đau họng, tắc mũi, ngạt mũi, nhức đầu: Ké đầu ngựa 20g, hoàng kỳ 30g, bạch chỉ 6g, kinh giới 10g, gạo tẻ 60g, tế tân 4g. Sắc các vị thuốc lấy nước rồi cho vào nấu với gạo tẻ. Khi gạo đã nhừ thành cháo thì có thể cho thêm một ít đường. Mỗi ngày dùng 1 lần, khoảng 7-10 ngày sẽ thấy kết quả.
Bài thuốc chữa viêm mũi dị ứng: ké đầu ngựa 16g, cây cứt lợn 15g, kim ngân hoa 30g. Nấu các vị thuốc với 4 chén nước còn lại 1 chén. Mỗi ngày dùng 2 lần. Lưu ý: nếu người bị lạnh bàn chân phải kèm thêm ngân châm 10 phút với nước ấm mỗi tối.
Chữa viêm da mủ: (chốc, nhọt...): Ké đầu ngựa, kim ngân hoa, bồ công anh, thổ phục linh, sài đất, mỗi vị 30g. Sắc với 600ml nước còn 150ml, chia 2 lần uống trong ngày. Uống trong 5 ngày. Hoặc: Ké đầu ngựa 10g, bồ công anh 15g, sài đất 10g, kim ngân hoa 5g, cam thảo đất 2g. Tất cả bào chế thành dạng chè thuốc, trọng lượng của 1 gói là 42g, mỗi ngày dùng 1 gói, cho hãm nước sôi uống trong ngày.
Chữa lở ngứa các loại: Ké đầu ngựa 4g, lá khổ sâm 8g, lá kinh giới 10g, kim ngân hoa 11g. Sắc lấy nước uống, mỗi ngày uống 2 lần, uống sau khi ăn cơm. Ngày uống hết 1 thang thuốc, uống liên tục trong 3 ngày.
Chữa bệnh phong (cùi, hủi): Ké đầu ngựa giã vắt lấy nước cốt cô thành cao, làm thỏi 300g, lấy 1 con cá quả đen, mổ bụng, để ruột không bỏ, cho vào một thỏi ké. Nấu chín với rượu để ăn. Ăn 3-5 con. Kiêng muối 100 ngày.
Các loại ké đắng, cay, thầu dầu tía, củ khúc khắc mỗi thứ 12g, lá khổ sâm, lá hồng hoa, lá thanh cao, lá kinh giới, sà sàng, bạch chỉ mỗi vị 8g, nam sâm 4g. Sắc uống.
Chữa sỏi thận: Thương nhĩ tử thiêu tồn tính, Đinh lịch, các vị bằng nhau, tán nhỏ, pha với nước uống trong ngày, mỗi lần 8g, uống 2 lần/ngày.
Chữa hoa mắt chóng mặt: Quả ké đầu ngựa phơi khô, tán nhỏ, mỗi lần uống 4g với rượu. Ngày uống 3 lần, uống được nửa thì luyện mật thành viên nhỏ bằng hạt ngô, mỗi lần uống 20 viên thuốc.
Lưu ý: Khi dùng vị thuốc có ké đầu ngựa, không nên ăn thịt lợn, thịt ngựa vì với người mẫn cảm có thể bị nổi quầng trên da. Phụ nữ mang thai, nuôi con bú không được dùng bài thuốc có ké đầu ngựa.
Trị thấp khớp, viêm khớp: ké đầu ngựa 10g, vòi voi 20g, lá lốt 10g, ngưu tất 10g. Tán bột, mỗi lần dùng 2 thìa cà phê (8g), hãm với nước sôi, uống ngày 2 lần.
Trị viêm đa khớp tiến triển: ké đầu ngựa 12g, ngưu tất 16g, hy thiêm 16g, thổ phục linh 12g, cành dâu 12g, tỳ giải 12g, cà gai leo 12g, lá lốt 10g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Trị lên sởi, ngứa phát ban, mụn lở loét: Ké đầu ngựa 8g, địa phu tử 8g. Sắc uống. Trị lên sởi, ngứa phát ban, mụn lở loét.
Chữa dị ứng: Ké đầu ngựa 15 g, khổ sâm 8 g, hoàng cầm 8 g, chi tử 8 g, phòng phong 8 g, cam thảo 4 g, sinh địa 12 g…
Ánh Dương
Theo tạp chí Sống khỏe