Mặt phí đông có một tòa lầu 3 tầng và các mái hiên, cột trụ và cột nhà cùng cửa lớn và cửa sổ đều được trang hoàng với những ảnh tượng bằng vàng hay bạc, với ngọc ngà đính vào tượng và các kẻ hở. Những phòng âm u và những hành lang bí mật đều có cửa sổ mở vào trong những tầng lầu. Về phía mặt và phía trái đều có tượng đức Quán Thế Âm và tượng đức Bồ Tát Di Lặc. Những tượng nầy đều bằng bạc và cao độ 3 thước tây. Tại chổ tháp hiện tại, vua A Dục ban đầu có lập một ngôi chùa nhỏ, về sau có người Bà La Môn lập lại một ngôi khác to rộng hơn nhiều’’. (9) ‘’Ngọn tháp mà ngài Huyền Trang miêu tả chính là ngọn tháp hiện tại, không còn nghi ngờ gì nữa, dầu có sửa chữa và thay đổi". (10) Theo lịch sử, Phật giáo Tích Lan có liên quan đến Bồ Đề Đạo Tràng kể từ khi vua A Dục cử Đại đức Sanghamitta đem nhánh Bồ Đề qua Tích Lan tặng. Năm 330 vua Meghavana có lập một ngôi chùa tại Bồ Đề Đạo Tràng để chư tăng người Tích Lan có nơi tu học. Năm 1079 phật tử Miến Điện góp công sửa sang lại ngôi tháp và xây tường bao bọc chung quanh. Đến năm 1298 phật tử Miến Điện lại trùng tu lại một lần nữa. Tại làng Janibigha thuộc xứ Bihar có tìm được một tấm bia đề năm 1202 ghi vị tỳ kheo người Tích Lan tên Manalaswami quản lý ngôi làng để lo việc tu bổ và cúng lễ Kim Cương Tòa tại Bồ Đề Đạo Tràng. Theo những tài liệu ghi trên cho thấy ít nhất là cho đến thế kỷ 13 sau tây lịch Bồ Đề Đạo Tràng còn do phật tử Tích Lan và Ấn Độ quản trị. Sau khi giặc Hồi Giáo tràn vào chiếm cứ Ấn Độ tàn sát Tăng Ni Phật Tử, đốt phá chùa chiền và các di tích Phật Giáo Phật tích nầy mới bị bỏ hoang không người chăm sóc cho đến khi ông Mahant (thuộc Ấn Giáo) đến tại nơi nầy. Năm 1812 nhà khảo cổ trứ danh là bác sĩ Buchannan Hamilton đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng, ông đã trông thấy ngôi đại tháp đã đổ nát hoang phế từ lâu. Như vậy chứng tỏ ông Mahant không để ý gì đến việc tu sửa ngôi tháp nầy. Vị Đại sứ Miến Điện tên là Mêngy Maha Chesu và đoàn tùy tùng đà đến thăm nơi đây vào năm 1833, có tìm thấy một tấm bia ghi bằng chử Pali như sau: ‘’Đây là một trong số 84 ngàn ngôi tháp do vua A Dục, vua cõi Diêm Phù Đề, dựng lên để kỷ niệm nơi đức Phật Thành Đạo .. ". Ngày 18-8-1875, bộ ngoại giao Miến Điện gởi một văn thư cho ông Tổng Toàn Quyền yêu cầu được phép trùng tu lại ngôi đại tháp, xây tường để đở nhánh cây Bồ Đề, sửa chửa lại những đền đài đổ nát tại đây và xây một ngôi chùa cho Tăng chúng tu học trong khu vực Bồ Đề Đạo Tràng. Trong khi ấy chiến tranh giữa nước Anh và Miến Điện bùng nổ nên đáng lý ra công việc trùng tu xây cất phải do đại diện của nhà vua Miến Điện nhưng lại phải giao cho ông Mahant (Ấn giáo) và chính phủ Ấn Độ quản đốc công việc. Có điều lạ là sở Bác Cổ Ấn lại không quan tâm đến Đại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó có rất nhiều ý kiến và thĩnh nguyện thư của phật tử đòi giao lại Phật Tích nầy cho phật tử quản lý nhưng không được đáp ứng bởi chính phủ Anh và Ấn Độ lúc bấy giờ... Mãi đến năm 1891 ngài Anagarika Dharmapala tự đãm trách công việc đòi lại Bồ Đề Đạo Tràng từ tay Ấn Độ giáo. Vì họ chỉ giữ Thánh Tích với mục đích hưỡng lợi qua sự cúng dường của bá tánh chứ không hề có ý muốn tu sửa hay cung kính chi cả. Sau lần chiêm bái Thánh Tích này, ngài Dharmapala ngày 21-1-1891 đã ghi trong nhật ký như sau: ‘’Tôi với ông Durga Bahu và bác sĩ Chetteijee đến Buddhagaya, nơi tôn quí nhất của phật tử. Sau khi đi độ 6 dặm Anh, chúng tôi đến tại thánh tích. Trong khoảng một dặm Anh, chúng tôi đã thấy những tượng của Đức Từ Phụ lăn lóc chổ nầy chồ kia. Tại ngôi đền của ông Mahant hai bên cửa có những tượng Đức Thế Tôn đang thiền định hay đang thuyết pháp. Ôi ! Tôn nghiêm làm sao ngôi tháp quí báu nầy! Đức Thế Tôn ngồi trên pháp tòa và sự tôn nghiêm tỏa khắp làm cho phật tử chí thành phát khóc. Ôi sung sướng biết bao! Khi vầng tráng của tôi chạm đến Kim Cương Tòa, một ý niệm phát ra rồi đánh mạnh vào tâm trí tôi. Ý niệm ấy bảo tôi dừng lại đây và gìn giữa thánh tích tôn nghiêm nầy, tôn nghiêm đến nỗI không gì trên đời nầy sánh bằng, vì đây là chổ mà dưới gốc Bồ Đề Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã giác ngộ thành Phật. Tôi lượm một vài ngọn lá và một ngọn cỏ có hình dáng rất đặc biệt. Khi một ý niệm đột nhiên đến với tôi, tôi hỏi vị tu sĩ ngườI Nhật tên Kozen có bằng lòng ở lại dây với chúng tôi không? Vị nầy hoan hỷ bằng lòng và hơn thế nữa vị nầy cũng nghĩ như tôi. Cả hai chúng tôi thề một cách trịnh trọng quyết ở lại đây cho đến khi có một vài tu sĩ đến quản đốc Thánh Tích nầy’’ (22-1-1891) . Ngài Dharmapala sau khi đi chiêm bái về đến Tích Lan, ngày 31-6-1891 tổ chức một đại hội Phật giáo do Ngài Sumangala làm chủ tọa, trong buổi họp nầy hội Maha Bồ Đề được thành lập với mục đích lấy lại Bồ Đề Đạo Tràng và truyền bá chánh pháp tại Ấn Độ. Đại Đức Sumangala là chủ tịch, Đại đức Dharmapala làm chánh thư ký hội. Sau hai lần kiện để đòi lại Thánh Tích nầy cho phật tử, thất bại vì ngài Dharmapala không đủ tiền bạc và thế lực nên bị thua kiện. Thế nhưng ngài đã dùng phương tiện truyền thông, báo chí để vận động dư luận quần chúng ủng hộ. Do đó quần chúng Ấn Độ và phật tử trong nước cùng nước ngoài đều biết qua báo chí và họ đều hổ trợ cho công việc đòi lại Thánh Tích. Do những ảnh hưởng kể trên nên vấn đề nầy được đem ra bàn cải tại Đại Hội Quốc Gia Ấn Độ (Indian National Congress) nhóm họp tại Gaya, Belgaon, Coconada và các nơi khác nữa. Đảng Quốc Đại đã thành lập một ủy ban để lo xử lý công việc nầy theo đó Phật giáo cử đại diện và Ấn Độ Giáo cũng cử đại diện vào ủy ban quản lý Thánh Tích nầy nhưng không thành công vì phía Ấn giáo phản đói đề án. Mãi đến sau khi Ấn Độ được Anh trao trả độc lập, chính phủ Ấn Độ đứng ra trực tiếp can thiệp và trao quyền quản đốc Thánh Tích cho một ủy ban gồm có 11 người, 5 người Ấn Độ Giáo (trong số nầy có ông Mahant) và 5 người phật tử, một vị chủ tịch ủy ban do chính phủ Ấn đề cử để lo việc quản đốc Thánh Tích. Kể từ khi ấy đến nay Thánh Tích nầy do phật tử đứng ra tu bổ. Ngoài ra chính phủ Ấn còn kêu gọi phật tử các nước khác đến lập chùa trong khu vực Thánh Tích để tiện việc cho chư tăng, ni tu niệm và có nơi tạm trú cho tín đồ đến tham bái. (11) 4- Những ngôi chùa của nước ngoài tại Bồ đề Đạo tràng Chung quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng có những chùa của các nước như sau: chùa Miến Điện, được xây cất cách nay độ chừng trên 50 năm. Chùa xây có vẽ sơ sài, có lẽ ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của người Miến Điện là đơn giản hóa mọi vấn đề ? ... Chùa Trung Hoa đói diện Bồ Đề Đạo Tràng về hướng đông. Phật Giáo Nhật Bản có hai ngôi chùa trong khu vực nầy. Chùa xây qui mô có lối kiến trúc tân thời theo kiểu Nhật Bản. Ngoài chánh điện lớn trang nghiêm còn có cả thiền đường Tăng phòng, nhà trọ, trai đường... trông rất nguy nga đồ sộ... Chùa của nước Butan rất lớn, mặc dầu họ là một quốc gia nhỏ bé. Phật Giáo là quốc giáo tại quốc gia nằm trong dãy Hy Mã Lạp Sơn nầy. Một chùa Ấn Độ đang xây cất ( đó là năm 1988) chẵng biết giờ nầy đã hoàn thành chưa? Vì công việc xây cất trông yếu ớt lắm ! Ngoài ra còn có các chùa khác như chùa Nepal, chùa Thái Lan rất lớn, chùa Sikkim v.v.. Về phía Tây Tạng họ có hai chùa, cả hai đều có những bích họa rất đáng để ý. Một ngôi chùa thuộc phái Geluppas thường được gọi là phái Mũ Vàng. Trong chùa có một tấm bích họa bánh xe pháp luân khổng lồ, sự phức tạp và màu sắc sặc sở tượng trưng cho sự rắc rối lộn xộn củ đời sống luân hồi, con đường đưa đến đời sống giải thoát và hình ảnh thuyết pháp, giảng đạo... Bức họa là cả một công trình khoa học, bố cục và họa theo phương pháp hình học rất phân minh, rỏ ràng và đày đủ ý nghĩa thâm sâu của nó. Để diễn tả tam độc là tham, sân si, ở trong trục bánh xe có vẽ một con gà, một con rắng và một con heo. Ba con vật nầy cắn đuôi của nhau làm thành một vòng tròn liên tục. Để diển tả cái nghiệp (karma), vòng tròn xung quanh trục chia làm hai phần đen và trắng. Đen tượng trưng cho ác nghiệp và trắng tượng trưng cho những điều thiện... Để diễn tả 12 nhân duyên, vành bánh xe chia làm 12 đoạn như sau: Một người đàn bà mù tượng trưng cho Vô Minh (avijja). Người đang nhồi đất sét tượng trưng cho Hành (samkhara). Con vượn đang cầm cái ghế, cái chậu chỉ cho Thức (Vijnana). Người đang ở trong một chiếc thuyền chỉ cho Danh Sắc (namarupa). Một cái nhà với 6 cửa sổ tượng trưng cho Lục Nhập (salayatana). Đôi trai gái ôm nhau chỉ cho Xúc (phasso). Một người đang rút mũi tên ra đâm vào mắt chỉ cho Thọ (vedana). Một người nghiện rượu liên miên chỉ cho Ái (tanha). Một con khỉ đang hái trái cây chỉ cho Thủ (upadana). Hửu (bhava)... Sanh (jati) là một hình ảnh đang hành dâm. Một người già đang đi khòm chống gậy là lão (jara) và một số người đang khiêng thây ma ch*t đi chôn chỉ cho Tử (marana), cũng vừa là diễn tả cho sự tiếp nối của đời sau trong sự chuyễn nghiệp. Ngoài ra còn có hình ảnh một con quái vật rùng rợn (chỉ cho ma vương), đang cắn chặt toàn thể bánh xe trong răng và cho quay tròn bánh xe bằng 2 chân và 2 tay của nó. Hình ảnh cuối cùng là đức Phật Thích Ca đang đứng thẳng, cao xa, ở góc bên trái, phía mặt đưa tay chỉ ma vương và bánh xe đó.(12) Những hình ảnh kể trên cho ta những ấn tượng sâu xa về kiếp sinh tử luân hồi, sự trầm luân đọa lạc, khiến chúng ta nhàm chán ghê sợ mà dũng mãnh phát tâm cầu giải thoát khỏ vòng sinh tử luân hồi. 5- Việt Nam Phật Quốc tự Chùa Việt Nam có tên là Việt Nam Phật Quốc Tự . Chùa được thành lập trong một khu đất rộng chừng hai mẫu tây, cách Thánh Tích chừng 15 phút đi bộ. Bắt đầu xây cất từ năm 1987, đến tháng 12-1988 đã xây xong một pháp xá 3 tầng, chiều dài độ 50 thước tây, có 30 phòng đôi dành cho khách hành hương nào muốn trú ngụ trong thời gian chiêm bái Thánh Tích. Phòng có đủ tiện nghi hiện đại như khách sạn cở trung tại New Delhi. Chùa đang vận đông xây chánh điện, thư viện, tượng Đức Quan Âm lộ thiên... Con đường trung đạo Đức Như Lai đã thuyết giảng đó là Bát Chánh Đạo (ariyoatthangikomaggo): Chánh Tri Kiến (samma-ditthi) Chánh Tư Duy (samma-sankappa) Chánh Ngữ (samma-mavaca) Chánh nghiệp (samma-kammanta) Chánh Mạng (samma-vajiva) Chánh Tinh Tấn (samma-vayama) Chánh Niệm (samma-sati) Chánh định (samma-samadhi) . Đức Phật đã giảng pháp Tứ Diệu Đế (aryasacca) : Khổ (duhkha-aryasatya) Tập (samudya) Diệt (nirdha) Đạo (marga), như sau : Khổ Đế là gì? Tức là những hình tướng của sự khổ não : ‘’ Sanh là khổ, già là khổ , bệnh là khổ, ch*t là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ, thân ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại 5 Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chấp thủ là khổ’. Kế đến Tập Đế là gì? Tức là những nguyên nhân đưa đến sự khổ. Đức Phật dạy: "Chính là Ái đưa đến Hửu, tương ứng với hỷ và tham, tìm cầu hoan lạc chổ nầy chổ kia, chính là dục ái , sanh ái, vô sanh ái". Diệt Đế là gì? "Chính là sự diệt tận, vô dục, từ bỏ, xả ly, giải thoát, tự tại đối với các ái". Đức Phật dạy chúng ta hãy diệt tận những nguyên nhân đưa đến khổ não ràng buộc khiến cho tâm trí ta bị vô minh che lấp, ánh sáng trí tuệ không thể tỏa sáng được ... Phương pháp diệt tận gốc rễ của sự khổ não đó là Đạo Đế. Đạo Đế đây tức là Con Đường Thánh Tám Ngành, còn gọi là con đường hay phương pháp hướng dẫn chúng ta diệt trừ những sự khổ và nguyên nhân đưa đến khổ não nói trên. Đó là Bát Chánh Đạo: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Đây là những pháp mà từ trước đến nay chưa có ai giảng thuyết cả. Sau khi Đức Như Lai thuyết pháp như vậy, 5 vị tỳ kheo hoan hỷ tán thán lời Đức Thế Tôn. Đức Kondanna (Kiều Trần Như) chứng được pháp nhãn thanh tịnh, không cấu nhiễm và chứng ngộ rằng: ‘’Các pháp do Tập sinh đều là những pháp phải bị diệt.’’(14) 7- Nỗi nhớ Vừa chiêm bái một vòng quanh Thánh Tích và suy niệm xong bài Kinh Thứ Nhất, giờ nầy trong tâm tư tôi vẫn còn nghe văng vẵn những lời vàng ngọc Đức Từ Phụ đã giảng dạy. Ôi ! lành thay ! Lưu luyến mãi cây Bồ Đề mấy ngàn năm vẫn ngày càng tỏa rộng cành lá xanh tươi hiền hòa để che mát cho con người. Ôi ! Lưu luyến ngôi đại tháp, cảnh vật hiền hòa thanh tịnh và những ngôi chùa, những ngôi chùa triều mến thân thương: Từ năm tôi đến chùa nầy Lòng như đã đến cõi ngoài trần gian Câu Kinh như những tiếng lòng Cỏ hoa là bạn tâm đồng trời mây... Như Tạng (15) Tiến sĩ Lâm Như Tạng Nguồn: http://www.buddhismtoday.com/viet/phattich/010-lntang.htm - Ghi Chú (1) Tự Điển Bách Khoa ‘’The World’’ , Volume 10, năm 1995 (2) , (7), (11), (13) HTT Minh Châu ‘’Đường Về Xứ Phật’’, 1964 (3) Đoàn Trung Còn ‘’Phật Học Từ Điển’’, 1966 (4), (5), (6), (12) TTT Như Điển ‘’Lòng Từ Đức Phật’’ 1989 (8) James Legge ‘’Ký Sự Fa-hsien’’ (9) Beel ‘’Hiuen Tsiang’’ tập 11 (10) Alexander Cunningham ‘’Maha Boddhi’’ (14) Tuệ Giác ‘’Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử’’, 1964 (15) Như Tạng, truyện thơ ‘Con Đường Cảm Thông’’, (đoạn 69), 1996
Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/doi-net-ve-bo-de-dao-trang-d17047.html)
Tin cùng nội dung
-
Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho những nạn nhân sớm bình phục và trả lại sự an bình, tịnh lạc cho Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng - Di sản Văn hóa Thế giới của nhân loại đã có được từ hàng chục thế kỷ qua.
-
Trong 28 đời Tổ sư Thiền tông của Ấn Độ, Bồ Đề Đạt Ma là tổ cuối cùng của nước Ấn và là Tổ có công lao to lớn đưa dòng thiền Thích Ca Văn, hay còn gọi là Như Lai Thanh tịnh thiền về các nước phương Đông đó là Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan và các nước trong khu vực.
-
Khi Phật nói kinh Bát Nhã trong số 1.250 vị đại A La Hán nói chung, 10 đại đệ tử nói riêng, người thấu hiểu không trí hơn hết là Tu Bồ Đề, bậc Giải Không Đệ Nhất.
-
Thiền sư Thường Chiếu là người can đảm phi thường dám nói thẳng về sự viên tịch của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sử sách khăng khăng Tổ về Ấn Độ chứ Tổ không viên tịch. Thiền sư đã buông một câu: Một con chó lớn sủa láo, bầy chó nhỏ sủa theo. Tại sao Thiền sư dám phủ nhận?
-
Lá làm dịu đau; rễ bổ; vỏ làm săn da. Quả được dùng ở Tahiti làm Thu*c dịu đau nửa đầu và dịch nhựa chảy ra từ cuống quả là vị Thu*c dân gian trị bò cạp và rết cắn. Cũng dùng làm Thu*c trị bệnh về da, đụng giập.
-
Dược liệu Đề có Vỏ làm săn da; quả nhuận tràng, làm toát mồ hôi, trấn kinh; hạt làm mát, giải nhiệt; lá và nhánh non xổ. Nước chiết vỏ có tác dụng ngăn cản hoạt động của các vi khuẩn Staphylococcus và Escherichia coli.
-
Theo Đông Y, dược liệu Lâm vồ hay Đa bồ đề Nhựa cây gây nôn, sát trùng; vỏ chống độc. ở Ấn Ðộ, nhựa được dùng trị giun và làm dịu khi bị hen suyễn, vỏ cây dùng trị rắn cắn. Ở Inđônêxia, quả chín dùng chế Thu*c bôi trị ghẻ.
-
Ngày 21/07/2019 tức ngày 19/06/2019 âm lịch tại chùa Ba Vàng (thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) đã long trọng tổ chức đại lễ phát Bồ Đề tâm nguyện và cầu siêu cho thai nhi. Đại lễ diễn ra với sự tham dự của hơn 20.000 người.
-
Đối với các tín đồ ăn chay lâu năm, Bình Tây là thương hiệu úy tín bậc nhất với hơn 60 năm kinh nghiệm trên thị trường. Trong số các sản phẩm của thương hiệu này, nước tương Lá Bồ Đề là sản phẩm được tìm mua nhiều nhất.
-
Hôm nay hội đủ duyên lành, lichvannien365 chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị về những điều mà Đức Phật đã chỉ dạy, nhằm giảm bớt những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời và tiến đến con đường hạnh phúc, giác ngộ giải thoát.
| |