Không quản vất vả do tiết trời, không ngại mùi xú uế từ bệnh nhân, cũng không màng chuyện được đền đáp hay trả công, Hải Thượng Lãn Ông chỉ chăm chăm lo cho người bệnh. Y đức cao vời luôn luôn hiện hữu trong suốt cuộc đời hành y độ thế của ông.Câu chuyện sau đây là một minh chứng tiêu biểu cho điều ấy...
Lãn Ông ngày đêm đến nhà thuyền chài thăm bệnh (Hình minh hoạ)Vào mùa hè một năm nọ, trời nóng bức ngột ngạt, Lãn Ông đang ở nhà thì có người thuyền chài hớt hải chạy đến xin ông đi thăm bệnh cho con gái anh ta. Đứa bé năm đó 13 tuổi, mắc bệnh đậu mùa. Lúc đứa bé mới phát nóng, vì đang bị ngoại cảm nặng nên nhức đầu đau mình, không ra mồ hôi và rất sợ nóng sợ lạnh, mũi ngạt tiếng nặng, lại thêm ho và khát nước, đại tiện thì táo kết còn tiểu tiện thì đỏ sẻn, có khi còn mê man nói nhảm.
Phút vị kỉ của vị danh y
Ban đầu Lãn Ông không đề phòng là phát đậu, thấy đứa bé sức vóc đen gầy nên điều Thu*c có tác dụng phát tán để mau hết sốt, nhưng đứa bé tuy ra mồ hôi mà nóng không lui. Lãn Ông lại dùng Thu*c thanh nhiệt nhưng nóng cũng không bớt. Ông liền dùng Thu*c mạnh hơn, dù bệnh chưa bớt nhiều nhưng đứa bé tinh thần hơi tỉnh, các chứng phiền khát khỏi dần. Có điều khi hết Thu*c bệnh lại như cũ, lúc đó đã nóng tới 6 ngày.
Lãn Ông nghe người nhà bệnh nhân báo tin, vội thân đến xem thì thấy tai, xương cùng và ngón tay giữa đều lạnh, mạch chậm và yếu. Ông tự nghĩ với chứng đậu mùa thì từ lúc phát nóng đến khi mưng mủ, mạch đập rất dồn dập mới phải, nhưng với trường hợp này thì do huyết nóng – độc thịnh quá, nên mạch mới yếu dần.
Lãn Ông liền cho đứa bé uống bài Thu*c có tác dụng thanh nhiệt thải độc. Đến tối ông lại xem, khi soi đèn thấy đậu mọc lờ mờ trong da, khắp mình tấy đỏ, lúc đó đứa bé lại sinh thêm chứng trong bụng trướng đau, đánh rắm rất thối. Ông biết là có phân còn đọng lại trong người và độc cũng tắc lại, liền dùng phương Thu*c trước và cho thêm vị Đại hoàng để giảm bớt các chứng.
Sáng sớm hôm sau,Lãn Ông tiếp tục đến thăm, thấy trên trán người bệnh có những vết đỏ như son, khắp mặt và toàn thân đã mọc đầy các nốt đậu. Không chỉ vậy, đứa bé còn nhai nuốt rất khó khăn, có cảm giác đau vướng ở cổ họng, thân mình nóng rát như lửa, mặt đã hơi sưng. Lãn Ông hiểu ngay đó là các ác chứng của bệnh đậu mùa, không thể chữa trị dứt điểm trong ngày một ngày hai.
Bấy giờ đang là mùa hè, nóng nực quá độ, nhà đứa bé lại ở ngay trên thuyền, bao nhiêu mùi tanh thối từ các nốt đậu trên người đứa bé bốc lên nồng nặc, gió thổi xộc vào mũi khiến Hải Thượng Lãn Ông cảm thấy nôn nao không chịu được. Vì thế ông không muốn chữa tiếp và nói với gia chủ bệnh đứa bé rất nguy hiểm, mình không trị được, người nhà nên mời thầy khác. Nói xong ông ra về.
Trong lúc bệnh nhân đang nguy khốn, hành động của Hải Thượng Lãn Ông dẫu do ngoại cảnh tác động nhưng thật không phải chút nào, càng không hợp với địa vị của một lang y luôn quan niệm nghề Thu*c là nhân thuật, phải tận tâm điều trị đến cùng như ông. Tuy nhiên, chúng ta không có cơ hội trách móc ông lâu, vì những diễn biến tiếp theo đã chứng minh sinh động đó là người thật tâm đặt lợi ích của bệnh nhân trên tất cả.