Đến chỗ này thì cho chúng tôi xin được bàn xa một chút về giáo pháp. Trong kinh điển gần với Nguyên Thủy nhất, như Theravāda - tu tập Vipassanā, khi hiện quán danh, sắc (như các trí đã nói ở trên) - khi thấy chúng sanh diệt nhanh quá, hành giả đâm ra sợ hãi, nhàm chán, khởi tâm xuất ly chúng, yểm ly chúng. Lưu ý, đây chỉ là tiến trình trên lộ trình thánh đạo. Vì nhờ khởi tâm yểm ly chúng, xuất ly chúng, nhàm chán chúng (18), hành giả mới có được cái trí muốn giải thoát, gọi là “dục giải thoát trí”(muñcitukamyatāñāṇa), sau đó mới có được trí phân tích (paṭisaṅkhāñāṅna), rồi trí hành xả (saṅkhārupekkhāñāṇa). Trí hành xả là vì sau khi thấy mọi danh sắc đều có trạng thái vô thường, dukkha (19) vô ngã - nên giữ được tâm bình đẳng, trạm nhiên đối với tất cả pháp hữu vi, không tham ái mà cũng không chán ghét chúng. Đây là trí quân bình tuyệt hảo, để từ đó nhìn đúng, thấy đúng thực tướng của danh sắc, không chấp thủ bên này, không chấp thủ bên kia, đúng như câu kệ Pháp cú: Không bờ này, bờ kia; cả hai bờ không có; lìa khổ không trói buộc; ta gọi Bà-la-môn! Và từ đó, tùy duyên mà hóa độ chúng sanh. Cũng vậy, người tu Vipassanā tương tợ như Vạn Hạnh, sau khi thấy rõ tất cả đều vô thường, sanh diệt thì không còn sợ hãi chúng nữa mà nắm chúng trong tay, thuận pháp, tùy pháp để giúp ích cho con người, cho cuộc đời! (20) Thế là chúng ta đã đi qua được 3 câu, còn câu thứ tư nữa. * Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Các vị dịch: - Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương (Mạnh Thát) - Thịnh suy như cỏ hạt sương đông (Thanh Từ) - Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương hồng (Nguyễn Lang) - Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành (Mật Thể) - Xuống lên ngọn cỏ hạt sương trong (Nguyễn Đăng Thục) - Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông (Ngô Tất Tố). Cái khái quát thì nó vậy. Tuy nhiên, thú vị nhất trong câu này là chữ lộ mà ai cũng nghĩ là sương, là hạt sương, giọt sương...(như Từ điển Nguyễn Văn Khôn); cho nên ai cũng dịch là sương cả. Ta thử đi qua một số từ và tự điển. Lộ là hạt móc - những hạt hơi nước rơi xuống lúc ban đêm mát trời (Bửu Kế). Lộ: Móc. Hơi nước gần mặt đất, đêm bám vào cây cỏ, gặp khí lạnh tụ lại từng giọt gọi là móc (Thiều Chửu). Lộ: Móc. Cây cỏ đất đá trên mặt đất nhân khí nóng mà bức xạ, lại gặp lạnh đến quá mau, khiến không khí khi tiếp xúc với chúng bị ngưng kết thành hạt nước bám vào chúng gọi là móc. Chỗ này, tác giả (Vĩnh Cao - Nguyễn Phố) còn chịu khó dẫn câu thơ của Đỗ Phủ: Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm (Những hạt móc như ngọc rơi rụng trong rừng cây phong). Như vậy là đã rõ, lộ là hạt móc. Móc khác với sương. Móc thì đọng lại còn sương thì lay bay. Thịnh suy giống như hạt móc phô trên đầu ngọn cỏ. Đây là cái nhìn trạm nhiên, thanh tịnh, đúng như hiện thực đang là. Chúng sao thì nói vậy chứ không có nghĩa đẹp (sương hồng) cũng chưa có ý định nói là nó rơi (sương rơi đầu cành). Chúng ta hãy nhìn hạt móc trên đầu ngọn cỏ (thảo đầu) thử xem. Nó có đấy chứ. Nó có đấy nhưng mong manh làm sao. Nó có đấy nhưng không biết sẽ rơi lúc nào, sự sống của nó ngắn ngủi lắm. Chỉ cần một vệt nắng, một làn gió, một chiếc lá rơi khẽ, một con chim lơ đễnh đụng nhằm (ngoại duyên) thì nó tan ngay! Có đó là không đó ngay. Thịnh, có đó chứ! Suy, có đó chứ! Nhưng thoáng chốc thôi - khi vận, lực, số, khí, thời... chuyển đổi, duyên khởi liên tục, vận hóa liên tục, cái này sang cái kia... như Lão Tử nói: Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu! Hoặc Dịch nói, cực âm, quá độ thái âm là thiếu dương, thiếu dương rồi thái dương, thái dương rồi thiếu âm! Chúng luôn luôn đi tìm sự quân bình - nhưng nếu quân bình thì vũ trụ sẽ ngưng dứt, tuyệt đối tĩnh chỉ, diệt vong! Đông Tây người ta đều hiểu điều này, ví như thuyết bảo toàn năng lượng! Định luật tâm, định luật pháp đều như thế. Cũng vậy, không những thịnh suy, mà tất thảy pháp hữu vi khác trên thế gian đều phải chịu chung định luật sinh diệt, có không tất yếu ấy! Viết đến ngang đây tôi cảm giác có cái gì đó lành lạnh như cơn gió hư vô thổi qua: Cái thân sắc chớp nháy của mình đây và cả những được mất, thành bại, hơn thua trên cuộc đời này - như hạt móc phơi trên đầu ngọn cỏ kia không biết sẽ rơi rụng lúc nào? Ôi! Cái tầng ngữ nghĩa ẩn giấu bên dưới 28 con chữ, mà sao dạy cho người đời, cho hậu thế quá nhiều điều đến vậy? Chỉ một cái sắc chớp nháy mà Vạn Hạnh đã nói được toàn bộ giáo pháp, đồng thời, đưa ra được triết lý hành động, nhập thế tích cực của mình nữa. Tri và hành là một. Vạn Hạnh muốn nhắn gởi với hậu học trước lúc ra đi - bằng ngôn giáo, thân hành suốt cuộc đời: Thấy cái sắc chớp nháy để giải thoát tất cả khổ và rồi chính mình đã làm một vị kiến trúc sư xây dựng triều đại nhà Lý, phụng sự suốt ba đời vua, đưa xã hội và con người sống cuộc đời thuần từ, hiền thiện - không là điều đáng cho thời đại này phải đăm chiêu, suy gẫm một chút xíu hay sao? Ôi! Cũng là sắc ấy, bây giờ là hạt hạ nguyên tử, khoa học đã khổ công tìm kiếm, nhưng mục đích dường như hoàn toàn lệch chiều, sai hướng. Đạo Phật hướng nội, khoa học hướng ngoại. Cái sắc hướng nội để thoát khổ. Hạt hạ nguyên tử hướng ngoại hầu chinh phục, sử dụng thế giới vi mô nhằm phụng sự văn minh. Chúng ta không thể phủ bác những giá trị to lớn do khoa học đem lại cho xã hội, cho con người... nhưng mà sao nó đáng sợ đến thế! Tiện nghi, vật chất xa hoa, hào nhoáng, sung mãn quá thì con người sẽ tha hóa, sẽ đam mê vật chất mà bỏ quên các giá trị tinh thần (văn hóa và tâm linh)! Nguy hại nhất là cả hành tinh đều bị ô nhiễm. Và kinh khiếp nhất là chỉ cần một nút bấm là nhân loại sẽ diệt vong... Nói tóm lại, 4 câu kệ của thiền sư Vạn Hạnh không những có giá trị văn học, thiền học, mỹ học mà còn hơn thế nữa... là cả một nền tảng tâm linh cho người học Phật và cả thế gian nương tựa. Bài thơ đẹp và kỳ vĩ quá! Và ai dịch cũng được cả. Được ở chỗ, ai cũng hiểu điều Trang Tử nói, được cá quên nơm, lấy ý quên lời! Tôi cũng không thể dịch khác, dịch hay hơn được. Chỉ mong rằng, có nhà thơ nào đó, có cách dụng ngữ tài hoa hãy dịch nó sát nghĩa, gần với giáo pháp hơn một chút là quý lắm rồi! Trân trọng! Minh Đức Triều Tâm Ảnh - Chú thích: (1) Tuệ Trung: Kiến giải trình kiến giải. Tự niết mục tác quái (2) Là sư Hộ Pháp, ở Thiền Viện Viên Không, xã Tóc Tiên, núi Dinh - Bà Rịa, Vũng Tàu. (3) 12 sắc thô: Mắt, tai, mũi. lưỡi, thân và 7 sắc đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, địa, hỏa, phong). 16 sắc tế: 02 bản tánh sắc (nam, nữ), 01 thủy sắc (kết dính), 01 ý căn sắc (cứ điểm cho tâm nương tựa), 01 mạng căn sắc, 01 thực sắc (ăn uống), 01 hư không sắc (khoảng không giữa các sắc), 02 thân, ngữ biểu sắc (cử động, nói năng), 03 biến hóa sắc ( biến đổi của sắc - nhẹ nhàng, mềm mại, thích ứng), 04 tướng sắc (sinh khởi, an trú, lụi tàn, vô thường). (4) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. (5) 01 hiển sắc (biểu lộ rõ ràng cho con mắt thấy), 01 hình sắc (hình thể, khối lượng), 01 biểu sắc (biểu lộ ra bên ngoài như co duỗi, nói năng, vui buồn...; chúng sinh diệt tương tục). (6) Ghi chú thêm: Một danh pháp - một niệm - phát sanh nhanh hơn sắc pháp 17 lần. (7) Có 18 sắc do nghiệp sanh, 15 sắc do tâm sanh, 13 sắc do thời tiết sanh, 12 sắc do vật thực. (8) Bia ký người ta tìm được tại Hoa Lư, nhà Đinh, đã có các kinh văn Đà-la-ni này. (9) Gambhīra-paññā (trí tuệ thâm sâu). (10) Trang 236 - Đạo của Vật lý - Fritjof Capra, Nguyễn Tường Bách biên dịch, NXB Trẻ, 2001. (11) Trang 237, Sđd. (12) Trang 243, Sđd. ((13) Ví dụ cái biết của con mắt (nhãn thức). Theo Phật giáo, không có cái biết của con mắt nếu không có nhãn căn và trần (đối tượng). Căn trần cũng chưa đủ, phải có ánh sáng, tiếp xúc, hướng tâm, cảm thọ, tri giác, chủ ý... tức là cần nhiều yếu tố tác hợp, cả một vận hành duyên khởi. (14) Có một loại sắc do tưởng mà có. Ví dụ, hôm qua mình giận một người, hôm nay vừa tưởng nghĩ đến người ấy (sắc - sắc quá khứ) thì cơn giận nổi lên. Nếu hiện quán thì sắc ấy không có trong hiện tại, chỉ do tưởng mà hình thành; sắc ấy vốn không có mà mình lại khổ, kỳ quá chứ? Hình ảnh, mùi vị, âm thanh...(sắc) quá khứ, vị lai đều như vậy cả. Chúng ta khổ là vì thấy sai với chân lý. (15) Có 5 định luật. Thế giới vật lý vô cơ (utuniyāma), thế giới sinh vật lý hữu cơ (bijaniyāma), về pháp (dhammaniyāma), về tâm (cittaniyāma), về nghiệp (kammaniyāma). (16) Bài kệ truy tặng Vạn Hạnh của Lý Nhân Tông: “ Vạn Hạnh dung tam tế. Chơn phù cổ sấm ky. Hương quan danh Cổ Pháp. Trụ tích trấn vương kỳ”. (17) Vạn Hạnh dặn dò đệ tử trước giờ thị tịch: “Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ”. (18) Chứ không phải nghĩ oan cho các vị A-la-hán khi nói rằng: Các ngài nhàm chán sinh tử, sợ hãi sinh tử nên muốn ly thoát sinh tử. (19) Dukkha thường được dịch là khổ, không nói hết nội hàm của nó. Tóm tắt, nó có 3 nghĩa chính. Một, tất cả những biến đổi về sinh vật lý cơ thể, đưa đến mệt mỏi, đau nhức, suy nhược, bệnh hoạn, già yếu, Tu vong... Hai, những biến đổi, thay đổi các tâm trạng, tâm lý, như: Khổ lạc, thương ghét, buồn vui, uất ức, sầu muộn, chán nản, ước vọng, hy vọng, tuyệt vọng, hận thù... Ba, là cái gì khó chịu đựng, khó kham nhẫn, đáng khinh miệt, hư vô, trống rỗng, ảo ảnh, khó nắm bắt. (20) Nhiều người hiểu lầm khi nói rằng, A-la-hán chứng được ngã không nhưng còn chấp pháp. Quả là quá ngây thơ. Tu Tứ niệm xứ, Vipassanā quán ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi, ngã và pháp - thì tất cả chúng đều không, (duyên khởi nên không, vô ngã); ý niệm về giải thoát cuối cùng cũng không dính mắc. Lại còn nói rằng A-la-hán tu Tứ Đế, Duyên Giác tu Thập nhị duyên khởi. Lại càng ngây thơ hơn nữa. Vì cả ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi đều nằm trọn vẹn nơi Tập Đế - chúng chính là nguyên nhân tất cả khổ, không hiện quán chúng thì không thể giải thoát các khổ được. Lại nữa, Đức Phật, Duyên Giác hay A-la-hán đều phải tu Tứ Đế; và ai cũng phải quán ngũ uẩn, duyên khởi cả, sâu hay cạn mà thôi! (Kinh Chuyển Pháp Luân). Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/sac-va-hat-ha-nguyen-tu-qua-bai-ke-cua-thien-su-van-hanh-d14158.html)
Tin cùng nội dung
-
(MangYTe) - Chuyện kể rằng trước khi đạt đạo, đang ngồi thiền thì thiền sư Hương Hải bị đám ma quái hiện hình bủa vây dẫn đến một cuộc đấu phép ly kỳ.
-
Đôi khi, chúng ta cảm thấy khó khăn khi tìm kiếm sự yên bình và hạnh phúc. Đó là do bạn lãng phí quá nhiều thời gian cho những điều đã hoặc chưa xảy ra trong cuộc sống mà quên tận hưởng giây phút hiện tại.
-
4 triết lý tình yêu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ khiến nhiều người trong chúng ta thức tỉnh.
-
(MangYTe) - Các thiền sư đạt được thần thông sau khi đắc đạo là điều được nhiều sách vở từ xưa đến nay ghi chép nhưng khoa học chưa thể giải thích.
-
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người sáng lập Phật giáo Dấn thân và là cha đẻ của phong trào Chánh niệm trong văn hóa phương Tây đã được nhận giải thưởng Pacem in Terris.
-
Chồng tôi bị liệt nửa mặt đã chữa trị nhiều nơi nhưng chưa hết hẳn, giờ miệng vẫn còn bị méo và nước mắt hay bị chảy...
-
Theo thông tin trên mạng triệu chứng cháu mắc phải là bệnh thấp tim. Cháu lo lắng quá, không biết bệnh này có khỏi hẳn không, Mangyte ơi?
-
Máy Gia tốc Hạt lớn nhất thế giới (LHC) phát hiện 5 hạt hạ nguyên tử mới có thể giúp giải thích cách thức trung tâm nguyên tử gắn kết với nhau.
-
Chào Mangyte, xin vui lòng cho em hỏi: muốn nội soi dạ dày ở BVĐK Vạn Hạnh (Quận 10, TPHCM) thì chi phí là bao nhiêu? Xin cảm ơn Mangyte. ( Nguyễn Thị Thùy Trang - Quận Tân Phú - TPHCM)
-
Xin cho em hỏi bảng giá khám bệnh tổng quát ở bệnh viện Vạn Hạnh với ạ. Và em hỏi thêm nữa là bệnh viện này có chờ đợi lâu như ĐHYD hay Hòa Hảo không ạ Em xin cảm ơn. (Hạnh Nguyên - quận 12, TPHCM)
|