Đa niệu và táo bón là hai triệu chứng đặc trưng nhất. Hình như protein cảm nhận calci tại nhánh lên quai Henle có liền quan đến việc ức chế tái hấp thu natri, gây đa niệu trong bệnh tăng calci máu.
Calci chiếm 2% trọng lượng cơ thể. Nhưng chỉ có 1% số lượng calci là ở dạng hòa tan trong dịch cơ thể. Trong huyết thanh, chỉ có 50% calci hòa tan là ở dạng ion tự do, số còn lại gắn với protein (đặc biệt là albumin 40%), hoặc các ion điện tích âm, như citrat, bicarbonat và phosphat (10%). Nồng độ calci máu bình thường là 9 - 10,3 mEq/ 100 ml, trong đó 4,7 - 5,3 mg/ 100 ml là calci ion hóa là dạng cần thiết cho các hoạt động của chức năng thần kinh và co cơ. Protein nhậy cảm calci, một dạng protein thụ thể có khả năng đặc biệt phát hiện nồng độ ion calci ngoại bào, được phát hiện trong các tế bào tuyến cận giáp và ở thận. Thiếu hụt protein này sẽ gây nên một số bệnh như hạ calci máu có tính gia đình hay tăng calci máu có giảm calci niệu có tính gia đình.
Nguyên nhân chính gây tăng calci máu được nêu trong bảng.
Bảng. Các nguyên nhân chính gây tăng calci máu
![]()
Hội chứng kiềm dạng sữa ngày nay đã trở nên hiếm gặp do dùng các chất kháng toan dạng không hấp thu trong điều trị bệnh loét, nhưng vẫn phải lưu ý khi dùng các Thu*c phổ biến chứa calci nhằm ngăn ngừa loãng xương hiện nay. Trong hội chứng này, dùng một lượng lớn calci và vitamin D có thể dẫn tới bệnh thận do tăng calci máu. Do mức lọc cầu thận giảm, làm ứ đọng chất kiềm chứa trong Thu*c chống toan có calci, gây nên nhiễm kiềm chuyển hóa; nôn khi nhiễm kiềm càng làm nặng bệnh thêm.
Biểu hiện lâm sàng
Triệu chứng và dấu hiệu
Đa niệu và táo bón là hai triệu chứng đặc trưng nhất. Hình như protein cảm nhận calci tại nhánh lên quai Henle có liền quan đến việc ức chế tái hấp thu natri, gây đa niệu trong bệnh tăng calci máu. Điều thú vị là không thấy có đa niệu trong tình trạng tăng calci máu có hạ calci niệu mang tính gia đình là bệnh mà trong đó cũng có sự biến loạn chức năng protein cảm nhận calci tại thận. Ngoài ra, còn có thể gặp một số biến đổi thần kinh khác. Khi tăng calci máu nặng, có thể gặp sững sờ, hôn mê và tăng nitơ máu. Ngoại tâm thu thất và nhịp tự thất có thể gặp, và thường nặng lên khi dùng digitalis.
Dấu hiệu cận lâm sàng
Thường thấy tăng calci máu nặng, nhưng phải nhận định cùng với nồng độ albumin máu. Nếu calci niệu vượt quá 200 mg/ngày là có tăng calci niệu, dưới 100mg/ngày là giảm calci niệu. Phosphat máu có thể thấp hoặc không, tùy thuộc nguyên nhân. Trên điện tâm đồ thấy khoảng QT ngắn. Định lượng nồng độ protein liên quan tới PTH có ích cho chẩn đoán tăng calci máu do bệnh ác tính.
Điều trị
Chừng nào mà các nguyên nhân bị không chế, thì việc đào thải calci qua thận sẽ được tăng cường. Vì thải Na gây tăng đào thải Ca2 , nên việc đảm bảo đủ khối lượng tuần hoàn và gây bài niệu bằng cách truyền dung dịch muối và furosemid là biện pháp cấp cứu được dùng phổ biến. Ở bệnh nhân có chức năng tim và thần kinh bình thường, đủ dịch, có thể dùng dung dịch muối S*nh l* 0,9 % hoặc 0,45 %, truyền nhanh (250 - 500 ml/giờ), phối hợp với Lasix 20 - 40 mg tĩnh mạch 2 giờ/lần để phòng quá tải dịch và tăng cường đào thải Ca2 . Dùng lợi niệu loại thiazid và Lasix nhưng không đảm bảo đầy đủ dịch sẽ làm nặng thêm tăng calci máu. Trong điều trị tăng calci máu do các bệnh ác tính, biphosphonat là Thu*c chủ chốt, an toàn và hiệu quả ở trên 95% trường hợp.
Nguồn: Internet.