Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Các tuyến nước bột gồm hai tuyến mang tai lớn, hai tuyến dưới hàm, một vài tuyến ở dưới lưỡi và có 600 - 1000 tuyến nước bọt nhỏ nằm rải rác ở phần trên của đường tiêu hóa - hô hấp.
Viêm cấp do loạn sản tuyến nước bọt
Viêm tuyến nước bọt
Nhiễm khuẩn cấp tuyến nước bọt của người lớn phần lớn ở tuyến mang tai và tuyến dưới hàm.
Thể hiện điển hình bằng sưng cấp tính của tuyến, đau tăng và sưng tăng lên khi ăn. Có thể cảm giác đau và ban đỏ ở lỗ mở ống dẫn, mủ thường có thể ra từ ống khi xoa bóp. Viêm tuyến nước bọt thường xuất hiện trong bệnh cảnh mất nước hoặc kết hợp với đau ốm kéo dài. Hội chứng Sjogren về cơ bản cũng có ảnh hưởng rõ như vậy.
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát. Vi khuẩn thường gặp trong mủ tuyến nước bọt là tụ cầu vàng. Việc điều trị bao gồm tiêm kháng sinh tĩnh mạch, có thể dùng nafcillin (1g tiêm tĩnh mạch mỗi 4 - 6 giờ một lần) và cũng lưu ý tới việc làm tăng tiết nước bọt bao gồm bù nước, đắp gạc ấm và tăng tiết nước bọt (như nhỏ giọt nước chanh), xoa bóp vùng tuyến. Điều trị thất bại trong các trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ áp xe, chít hẹp ống, sỏi hoặc khối u gây nên sự tắc nghẽn. Siêu âm hoặc CT scan có thể giúp xác định chuẩn đoán. Tốt nhất nên tránh chụp X quang tuyến nước bọt trong trường hợp cấp tính.
Sỏi tuyến nước bột
Sỏi thường tạo nên ở ống Wharton (dẫn lưu tuyến dưới hàm) nhiều hơn là ở ống Stensen (dẫn lưu tuyến mang tai). Trên lâm sàng bệnh nhân có the thấy đau và sưng khu trú, thương có tiền sử viêm tuyến nưốc bọt cấp tái phát, sỏi ở ống Wharton thường lớn và cản quang, trong khi đó sỏi ở ống Stensen thường không cản quang và nhỏ hơn. sỏi rất gần với chỗ đổ ra của ống Wharton, có thể sờ thấy ở phía trước sàn miệng và được lấy bỏ theo đường trong miệng bằng nong hoặc rạch đầu trong của ống. Sỏi ở đầu ngoài của ống phải được kẹp tạm thời để giữ cho sỏi không trở lại tuyến dưới hàm khi thao tác lấy ra. Những viên sỏi cách ống trên 1,5cm sẽ quá gần với dây lưỡi khó lấy ra an toàn bằng phưong pháp này.
Tương tự, nong ống Stensen vị trí ở niêm mạc má đối diện với răng hàm thứ hai, có thể làm mất thắt hẹp ở đầu trong hoặc cho phép sỏi nhỏ đi qua. Vị trí của dây thần kinh mặt làm cho việc lấy sỏi bằng đường miệng của tuyến mang tai không an toàn.
Sự tái phát của các giai đoạn viêm tuyến nước bọt dẫn tới thắt hẹp và nhiễm khuẩn mạn tính. Nếu sự tắc nghẽn không thể giải quyết bằng lấy bỏ hoặc nong thì có thể cần cắt bỏ tuyến.
Một số có thể thành công trường hợp chọn lọc tán sỏi bằng áp điện shock.
Viêm mạn tính và các rối loạn thâm nhiễm của tuyến nước bọt
Các rối loạn thâm nhiễm có thể gây to tuyến mang tai một bên hoặc hai bên. Bệnh Sjogren và bệnh sarcoid là những ví dụ của bệnh tổ chức hạt và bệnh của tổ chức lympho biểu mô. Các rối loạn chuyển hóa gồm những người uống rượu, đái tháo đường và thiếu vitamin có thể gây tuyến to lan tỏa. Một số Thu*c làm tuyến mang tai to ra gồm thioureas, iot và Thu*c tác dụng lên tiết acetylcholin (như phenothiazin) làm kích thích chảy nước bọt và làm cho nước bọt nhày hơn.
Nguồn: Internet.