MangYTe

Tâm linh hôm nay

Bát Nhã Tâm Kinh: Tương quan giữa Uẩn và Không

Trí tuệ trong giáo pháp nguyên thủy là phương tiện dùng để đạt tới giải thoát. Chính vì thế mà ta cũng thường nghe rằng Đạo Phật là Đạo của Trí tuệ. Kinh điển còn lưu lại luôn nói đến sự tu tập các tuệ để thực hiện giác ngộ
Mục lục

A. Tương quan giữa Uẩn và Không:

Tìm hiểu đoạn kinh sau đây:

Ta tìm hiểu từng phần một:

+ Trước hết là nói sắc uẩn.

Sắc uẩn chính là xác thân con người hoặc là cảnh vật chứ không gì khác. xác thân ấy, nói cho cùng, không ngoài tứ đại là đất nước gió lửa hợp lại mà tạo thành. khi bốn đại hợp lại thì có hiện tượng xác thân. khi chúng chia lìa khỏi nhau thì không tìm thấy thân đâu nữa. người hiểu được lý nhân duyên, nhìn lại bản thân mình thấy rõ nó là một hợp thể do các duyên mà thành. sở dĩ thân này có được là do tinh cha huyết mẹ hợp lại rồi có thần thức gá vào thành thân, được nuôi nấng bằng tứ đại, lớn lên bệnh tật, già rồi ch*t. rõ ràng giữa các Trong câu

+ Bốn uẩn còn lại cũng giống như thế.

Nghĩa là thọ chẳng khác không, không chẳng khác thọ; thọ tức là không, không tức là thọ. cho đến thức chẳng khác không, không chẳng khác thức; thức tức là không, không tức là thức. như vậy giữa các uẩn và không là một Với

B. Về tướng không của các pháp:

Để phát triển nguyên lý

Ở các phần trên của bản kinh này đã nói năm uẩn đều không, sau đó lại nói từng uẩn một chẳng khác với không, không chẳng khác với từng uẩn một và từng uẩn một tức là không, không tức là từng uẩn một. Đến đoạn này lại nói đến tướng không của các pháp. Chữ không trong cả các trường hợp nói trên đều chỉ cho tính của các pháp. Tính của các pháp không có hình tướng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, không có tướng cấu nhiễm, dơ bẩn của phàm phu, không có tướng thanh tịnh của chư Phật. Lúc ngộ nó cũng không thêm, lúc mê nó cũng không bớt. Bời thế nên cũng gọi là không tướng hay tướng không, chân tướng, thật tướng, chân như hay chân không hay thật tướng bát nhã. Tóm lại tính của các pháp là chân tâm thanh tịnh sáng suốt không có các hình tướng

Pháp chỉ chung cho tất cả sự vât, tinh thần, vật chất, hữu hình, vô hình, vv…Phàm những cái gì tự nó giữ được cái bản chất của nó làm cho người biết được nó là cái gì thì đều gọi là pháp.

Đi sâu hơn về mặt lý luân, từ nguyên lý C. Phủ định toàn bộ trong Chân Không:

Tìm hiểu câu kinh tiếp theo :

Đoạn kinh này nói trong

1. Ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức như đã nói ở phần trên

2. Ba điểm nói trên (Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Thập bát giới) nằm trong phần đối tượng giải quyết (con người, chúng sinh) thuộc về pháp thế gian.

4.

4.2- Hành là nghiệp thiện ác gây ra dựa vào đời quá khứ

Vô minh và Hành là nhân trong đời quá khứ.

4.3- Thức là một niệm dựa vào đời quá khứ mà chịu thụ thai vào đời hiện tại

4.4- Danh sắc là giai đoạn bào thai dần dần có hình tướng

4.5- Lục xứ hay lục nhập là giai đoạn 6 căn có đầy đủ sắp xuất thai

4.6- Xúc là giai đoạn khoảng 2,3 tuổi, chỉ muốn tiếp xúc với sự vật

4.7- 4.8- Ái là giai đoạn tử 14, 15 tuổi trở đi nảy sinh đủ thứ ái dục mạnh mẽ.

4.9- Ba điểm trên (Ái, Thủ, Hữu) là nhân trong đời hiện tại.

4.11- Sinh là địa vị nương vào cái nghiệp hiện tại mà thụ sinh ở đời vị lai

4.12- Lão tử là địa vị lão tử ở đời sau này.

Hai điểm cuối (Sinh, Lão tử) là quả của đời vị lai

Như vậy trong

Để rõ thêm, có thể diễn giải cái vòng luân hồi theo 12 nhân duyên như sau: Do chúng sinh đời quá khứ vi mê lầm, nên

Quán 12 nhân duyên cho ta biết nguồn gốc của sinh tử luân hồi là do 12 nhân duyên mà trọng tâm là do Thập nhị nhân duyên là pháp tu xuất thế gian, của hàng Nhị thừa là các bậc thánh Duyên Giác.

5. Tứ đế hay tứ diệu đế là bốn chân lý hay còn gọi là bốn sự thật căn bản, gồm có:

Khổ đế (Chân lý về sự đau khổ) bao gồm tất cả khổ đau về tinh thần và thể xác, Tập đế (Chân lý về nguyên nhân gây ra khổ) bao gồm mọi nguyên nhân gây ra khổ đau, mà đầu mối là tham, sân, si. Diệt đế (Chân lý về việc chấm dứt đau khổ) là tiêu diệt nguyên nhân khổ đau và Đạo đế (Chân lý về con đường dẫn đến việc chấm dứt cái khổ) là con đường, là phương pháp hành trì thực tế đưa đến chấm dứt khổ đau.

Khổ để có 3 loại khổ là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Trong khổ khổ lại có 8 loại khổ khác nhau. Xem phần khổ ách đã nói ở phần trên.

Ở đây nói rộng thêm về

2)- Chánh tư duy: Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động hãm hại vv…dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.

3)- Chánh ngữ: Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.

4)- Chánh nghiệp: Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.

5)- Chánh mạng: Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.

6)- Chánh tinh tấn: Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.

7)- Chánh niệm: Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.

8)- Chánh định: Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.

Khổ đế và tập đế là hai nhân quả thuộc thế gian. Diệt đế và đạo đế là nhân quả xuất thế gian. Cặp nào cũng quả trước nhân sau.

Tứ Diệu Đế là pháp tu của hàng xuất thế gian, của hàng Thanh Văn, Nhị thừa.

6. Trí là trí tuệ là phương tiện cứu cánh để chứng đắc.

Trí tuệ trong giáo pháp nguyên thủy là phương tiện dùng để đạt tới giải thoát. Chính vì thế mà ta cũng thường nghe rằng Đạo Phật là Đạo của Trí tuệ. Kinh điển còn lưu lại luôn nói đến sự tu tập các tuệ để thực hiện giác ngộ. Đạo Phật nguyên thủy là đạo của trí tuệ tự thân, sự giác ngộ trong Đạo Phật không dựa vào những năng lực thần bí đến từ bên ngoài. Mỗi con người đều có khả năng tu tập, rèn luyện tâm trí phàm phu của mình trở thành trí tuệ giải thoát. Hay nói cách khác, Trí tuệ của các vị Thánh cũng bắt đầu từ trí óc phàm phu. Tất cả chỉ khác nhau ở mức độ phát triển. Vậy Trí tuệ trong giáo pháp nguyên thủy cũng chính là “Bát Nhã” (Trí Bát Nhã) trong kinh văn của Phật Giáo phát triển.

Ðối trị tất cả sáu chủ điểm trên, trường phái Bát nhã lần lượt áp dụng

Hơn nữa đứng về mặt lý trí mà xét, cái đắc ấy không khác gì hơn là cái mình sẵn có, nhưng vì vô minh che lấp, nay nhờ giác ngộ mà bắt gặp trở lại mà thôi.

Bây giờ, lý luận ngược chiều trở lại, ta mới thấy tất cả cái tài tình của phép luận lý phủ định. Vì không

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/bat-nha-tam-kinh-tuong-quan-giua-uan-va-khong-d9944.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY