Các thể bệnh vẩy cá ít ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng lại gây ra nhiều phiền toái về thẩm mỹ. Hiểu biết các thể bệnh sẽ giúp chúng ta chăm sóc người bệnh tốt hơn.
Vẩy cá thể thông thường
Vẩy cá bẩm sinh thể thông thường thường gặp nhất, đây là bệnh di truyền gen trội, hiếm khibiểu hiện nặng, tỷ lệ mắc khoảng 1/250. Khoảng 37 - 50% trường hợp mắc đồng thời với viêm da cơ địahay các bệnh dị ứng khác như viêm mũi dị ứng, hen...
Bệnh vẩy cá thể thôngthường |
Dấu hiệu lâm sàng gồm: Da khô, bong vẩy khi sơ sinh, hoặc khoảng 2 tháng sau sinh haymuộn hơn. Vẩy da có màu trắng xám, nhỏ mịn, mảnh nhỏ cuộn tròn bám nửa vào da. Da toàn thân có thểbong vẩy bất thường nhưng chủ yếu ở mặt duỗi, nhất là ở cẳng chân. Tổn thương ở thành bụng nhưngvùng bẹn bình thường. Trên mặt, tổn thương có ở trán, quanh miệng, có thể có gàu nhẹ ở da đầu. Ởbàn tay, bàn chân, các vân tay trở nên rõ do bị dày sừng nhẹ. Không tổn thương lông, tóc, móng vàrăng, niêm mạc, mắt.
Bệnh nhẹ dần khi tuổi càng cao. Bệnh nhân có cảm giác da khô, ráp và thiếu tựtin vì vấn đề thẩm mỹ. Nếu chỉ bị vẩy cá đơn thuần thì không bị ngứa nhưng nếu phối hợp với viêm dacơ địa thì thường kèm theo ngứa, gãi có thể gây dày da liken hóa và các vết xước. Bệnh thường bớtkhi đến tuổi dậy thì, tuy nhiên cũng có một số bệnh nhân lại bị nặng lên.
Điều trị: Bệnh nhân cần được ở trong môi trường ấm, có độ ẩm vừa phải. Điều trị bằngcách bôi các kem dịu da, mềm da. Nếu bệnh nặng phải bôi các chế phẩm có parafin. Những người do bậnlàm việc không bôi kem đều đặn được thì có thể dùng sữa tắm có kem.
Nếu dùng mỡ salicylic 3 - 5%thì có tác dụng làm bong vẩy, nhưng dễ gây kích ứng và nhiễm độc nếu bôi diện rộng. Các loại acidhoa quả như lactat, glycolic, malic, citric, pyruvic... 5 - 10% chế phẩm dạng dầu hoặc kem, lotioncó tác dụng làm dịu da, mịn da. Đối với bệnh nhân bị cả hai bệnh vẩy cá và viêm da cơ địa, cần phảisử dụng kem có corticosteroid.
Vẩy cá do nhiễm sắc thểX
Đây là thể bệnh di truyền gen lặn của nam giới sinh ra từ bà mẹ mang gen bệnh nhưng không cótriệu chứng, bệnh xuất hiện sớm sau sinh. Triệu chứng đặc trưng là vẩy da nhiều, màu nâu bẩn ở gáy,chi, thân mình và mông. Thể này chỉ gặp ở nam với tỷ lệ mắc phải 1/2.000 - 6.000. Gen bệnh làXp22.32 ở nhiễm sắc thể X.
Nếu nữ mang gen này thường không biểu hiện bệnh. Bệnh sinh do thiếu hụtmen Steroid sulfatase. Triệu chứng thường xuất hiện sớm ngay sau khi sinh hoặc tháng đầu tiên vớitỷ lệ khoảng 75%. Biểu hiện vẩy da to, dính, màu nâu sẫm bẩn, hình đa giác. Tổn thương hay thấy ởmặt gấp, như vậy là trái ngược với vẩy cá thể thông thường, và mặt duỗi như sau cổ, quanh tai, vùngmặt - cằm, mặt duỗi cánh tay, nếp gấp khuỷu tay, khoeo chân.
Tổn thương ít có ở vùng bụng, ngực,nhưng rõ hơn ở các vùng mặt duỗi tay, mặt ngoài đùi và cẳng chân. Tổn thương có thể ở da đầu, nách,mu tay, mu chân, nhưng bàn tay, bàn chân và mặt không bị tổn thương. Đục giác mạc ở khoảng 50%trường hợp. Đặc biệt triệu chứng tinh hoàn ẩn gặp khoảng 20% trường hợp, tinh hoàn lạc chỗ, vôsinh... Bệnh không nhẹ khi bệnh nhân lớn lên và thường biểu hiện nặng hơn vào mùa khô hanh.
Điều trị: Dùng Thu*c bôi như với vẩy cá thể thông thường. Uống Thu*c retinoid có hiệuquả đối với một số trường hợp nhưng cần thận trọng với các tác dụng phụ của Thu*c và phải do bác sĩchỉ định và theo dõi chặt chẽ.
Tiêu bản tổn thương bệnh vẩy cá bong vẩylá. |
Vẩy cá bong vẩy lá
Đây là thể bệnh thường xuất hiện ngay sau khi sinh với triệu chứng đứa trẻ có bọc màng, sau đómàng sẽ mất đi nhanh và xuất hiện các vẩy da lớn, thô trên da toàn thân bao gồm cả mặt gấp của chi,bàn tay, bàn chân. Bệnh làm ảnh hưởng lớn về thẩm mỹ.
Biểu hiện: Khi sinh ra trẻ đã bị bệnh với biểu hiện có màng bọc toàn thân, màng bọc trong vàbong đi trong vài tuần, đỏ da toàn thân, lộn mi và lộn môi, da mặt căng. Trẻ nhỏ và người lớn cóvẩy da như giấy ở toàn thân, trông như hình ảnh lát đá hoa. Vẩy da to, dày, màu nâu bao phủ khắp cơthể, nặng nhất ở chi dưới.
Da ở quanh khớp dày sừng có khi sùi cao lên. Dày sừng ở bàn tay, bànchân, lòng bàn tay, bàn chân nứt. Có thể xuất hiện đỏ da toàn thân. Tóc có thể bị rụng do nhiễmkhuẩn. Tổn thương gây sẹo, thường có màu nâu do vẩy da. Niêm mạc không bị tổn thương. Trẻ có nguycơ bị mất nước, tăng natri huyết, bội nhiễm và nhiễm khuẩn huyết. Bệnh tồn tại suốt đời và khôngtiến triển nhẹ đi khi lớn lên. Dày sừng làm tắc các tuyến bài tiết mồ hôi, làm cho bệnh nhân khôngtiết được mồ hôi...
Điều trị bằng cách bôi các Thu*c làm dịu da, mềm da. Bôi Thu*c bong vẩy da và alpha - hydroxyacid, uống retinoid như trong trường hợp trên.
AloBacsi.vnTheo ThS Phạm Thanh Xuân - Sức khỏe & Đời sống