MangYTe

Bệnh truyền nhiễm hôm nay

Những thiếu sót khi dùng Thuốc chữa sốt xuất huyết

Do chưa hiểu đầy đủ S*nh l* bệnh sốt xuát huyết , nên việc dùng Thuốc ở tuyên dưới đặc biệt là tại nhà có những thiếu sót, cần được khắc phục.
Mục lục
Những điều cần biết về bệnh

Virus Dengue (Đăngơ), có thể gây ra sốt xuất huyết không có sốc, hoặc sốt xuất huyết có sốc.

- Sốt xuất huyết có sốc có 3 biểu hiện: Giãn mạch làm cho huyết tương thoát ra ngoài thành mạch dẫn đến máu bị cô đặc, giảm lượng máu lưu thông, gây sốc. Rối loạn đông máu biểu hiện ở ba điểm: biến đổi thành mạch, hạ tiểu cầu, rối loạn đông máu. Hệ thống bổ thể và làm giảm C3- C5 huyết thanh bị kích hoạt.

- Sốt xuất huyết không sốc: Sự giãn mạch chỉ ở mức độ nhẹ, lượng huyết tương thoát ra ngoài thành mạch ít nên không gây sốc.

Xuất huyết thận trong bệnh sốt xuất huyết
Virut Đăngơ có cách phát triển trong cơ thể khác thường: Virut ( kháng nguyên) có ái tính với tế bào đơn nhân- đại thực bào. Kháng thể (do cơ thể sinh ra) không ngăn cản virut hoạt động, trái lại làm cho virut phát triển nhanh hơn.

Có thể giải thích cơ chế của các hiện tượng trên: Thoạt đầu, kháng thể làm cho virut gắn với tế bào đơn nhân - đại thực bào thành một tổ hợp.

Sau đó, các tế bào lympho tấn công vào tổ hợp này, phá hủy các tế bào đơn nhân-đại thực bào nên lại giải phóng ra virut và chất gây giãn mạch, tromboplastin bạch cầu, chất hoạt hóa C3. Chất C3 lại hoạt hóa thành chất kích thích tế bào đơn nhân- đại thực bào, rồi lặp lại chu trình trên. Như vậy, kháng thể không chặn được virut, chất gây giãn mạch thì được tiết ra liên tục.

Nắm vững bệnh sinh mới dùng Thuốc đúng, hiệu quả

Một số điều cần chú ý khi dùng Thuốc:

Dùng Thuốc hạ sốt:

Chỉ dùng paracetamol với liều mỗi lần 15 mg/ kg thể trọng. Không dùng aspirin vì aspirin ngăn tập kết tiểu cầu, chống đông máu, làm cho việc xuất huyết không cầm được, sự rối loạn đông máu càng trầm trọng hơn.

Tất cả các kháng viêm không steroid đều có tác dụng không lợi này (tuy mức độ khác với aspirin). Có một số biệt dược kép chữa cảm cúm, làm giảm đau có chứa kháng viêm không steroid (ibuprofen, diclofenac).

Khi mới nhiễm Đăngơ, chưa có sự xuất huyết ngay mà có biểu hiện giống như cảm cúm (sốt, đau cơ, đau khớp). Nếu nhầm bệnh, dùng loại biệt dược kép này thì nguy hiểm như dùng aspirin.

Dùng dịch truyền:

Chọn dịch truyền:

Huyết tương thoát ra ngoài, thể tích máu trong lòng mạch giảm, sốt cao gây mất nước làm tăng thêm sự giảm sút này, máu cô đặc lại, huyết áp hạ, nhịp tim nhanh, nên cần phải truyền dịch. Sự mất dịch này chủ yếu là mất nước, ít mất natri. Cần chọn loại dịch chứa ít natri. Tốt nhất là dung dịch Ringer lactate.

Nếu không có thì dùng dung dịch natri chlorid đẳng trương (0,9%), glucose đẳng trương ( 5%). Chỉ khi rất nặng (cấp cứu ở bệnh viện) mà truyền các dung dịch này huyết áp vẫn không hồi phục, thì mới chuyển sang truyền các dung dịch cao phân tử.

Khi mắc sốt xuất huyết, người bệnh rất nhạy cảm, dễ bị sốc phản vệ. Cần ưu tiên dùng loại uống (ở độ I, đầu độ II), khi cần mới truyền (cuối độ II và II). Theo Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) nếu cho 100% người dùng Oresol (ORS) ngay khi nhập viện, thì số người còn lại cần truyền dịch chỉ khoảng 15%.

Cần có dụng cụ đo lường (dung tích 1000ml) đủ nước (đun sôi, để nguội) để khi hòa 01 gói ORS vào vừa đủ 1000ml sẽ có dung dịch ORS đẳng trương. Nếu không, người bệnh sẽ cho cả gói ORS vào bát ăn (chỉ 300ml) cho từng ít nước vào, gạn ra uống; hoặc pha bột ORS vào nước khoáng ( đã có sẵn muối); cách pha sai này sẽ tạo ra dung dịch ORS ưu trương, uống dung dịch ưu trương sẽ bị khát, lại uống tiếp nên quá liều, sẽ bị nhiễm độc do thừa muối.

Liều lượng, tốc độ truyền:

Liều lượng: Thận trọng trẻ lúc chưa mắc bệnh (P1), khi bị mắc bệnh, mất dịch (P2) thì lượng dịch bị mất cần bù là P2- P1. Cần bù đủ trong 24 giờ (8 giờ đầu bằng 50%, 16 giờ sau là 50%) lượng dich bị mất...

Tốc độ truyền: Từ lượng dịch cần bù, tính ra tốc độ truyền bằng ml/giờ. Tốc độ tính bằng ml/giờ, chia ra lam 3 lần thì bằng tốc độ tính bằng giọt/phút.. Ví dụ: tốc độ 100ml/giờ bằng với tốc độ 33 giọt /phút. Qui ra tốc độ tính bằng giọt/ phút dễ theo dõi hơn.

Khi nhập viện, thận trọng chỉ có số đo P2 ít khi có số đo P1. Theo kinh nghiệm, trên trẻ em Việt Nam, người ta đưa ra một cách tính liều bù dịch theo thận trọng P2 (tính bằng ml/kg/ 24 giờ) lần lượt vào các ngày thứ 1-2-3 như sau: Trẻ 7kg liều (220-165-132) ; Trẻ 8 kg- 11 kg, liều (165-132-88); Trẻ 12-18 kg liều (132-88-88); Trẻ 18 kg l liều (88-88-88) ml/ kg/24 giờ. Dựa vào chuẩn này, tính được liều bù dịch trong 24 giờ ứng với từng cân nặng cụ thể.

Tương tự, liều bù dịch cho người lớn: Ở độ II, ở giờ đầu là 6-7ml/kg/giờ; ở giờ thứ 2 -3 là 5ml/kg/giờ; ở giờ thứ 4-5 là 3ml/kg/giờ. Ở độ III, thì truyền với tốc độ nhanh hơn, ứng với các khoảng thời gian trên là lần lượt các liều: 15-20ml/kg/giờ-10ml/ kg/ giờ và 7,5ml/kg/ giờ. Tính ra với độ II, người nặng 50 kg thì lượng dịch truyền tương ứng với các thời gian trên sẽ là là 350ml 500ml 300ml tổng cộng trong 5 giờ là 1150ml.

Truyền thừa dịch sẽ gây rối loạn cân bằng muối nước, rõ nhất là ứ đọng nước trong các mô, tổ chức (như tràn dịch màng phổi).

Truyền với tốc độ cao (trong 1giờ làm thay đổi nồng độ natri máu quá 1 mEq/ lít). Thì làm cho lượng natri tăng quá nhanh, gây ra sự quá liều tức thời, không có lợi.

Thiếu sót trong truyền dịch (đặc biệt ở tuyến dưới, ở nhà) là truyền thừa dịch, truyền tốc độ cao, một phần do tính toán, nhưng phần lớn hơn là thiếu theo dõi điều chỉnh tốc độ và ngừng truyền đúng lúc.

Có cần dùng kháng sinh?

Kháng sinh chỉ làm suy yếu virut rồi cơ thể sinh ra kháng thể diệt virut (qua con đường thực bào). Như nói trên, với Đăngơ, thì kháng thể lại không ngăn cản virut mà còn làm virut phát triển. Hiện cũng chưa có kháng sinh đặc hiệu với Đăngơ.

Do đó, không thể dùng kháng sinh chữa sốt xuất huyết. Trong sốt xuất huyết, máu bị cô đặc, nếu dùng kháng sinh bao vây thì nồng độ của kháng sinh trong máu sẽ cao và tính độc của kháng sinh cũng sẽ cao hơn nhiều lần ngay ở liều bình thường.

Do thế không nên tự ý dùng kháng sinh bao vây. Nếu trường hợp đặc biệt, vừa bị sốt xuất huyết vừa bị cúm (như A/H1N1chẳng hạn) thì thầy Thuốc sẽ có điều chỉnh thích hợp trong việc chữa bệnh.

Theo DS. Bùi Văn Uy - Sức khỏe và Đời sống

Mạng Y Tế
Nguồn: Alo bác sĩ (http://alobacsi.com/nhung-thieu-sot-khi-dung-thuoc-chua-sot-xuat-huyet-n248686.html)

Tin cùng nội dung

  • Ảnh hưởng của quá trình điều trị ung thư đến dinh dưỡng
    Cơ thể cần thêm năng lượng và chất dinh dưỡng để lành vết thương, chống nhiễm trùng và phục hồi sau phẫu thuật. Nếu bệnh nhân bị thiếu hoặc suy dinh dưỡng trước khi mổ, quá trình hồi phục có thể gặp trở ngại.
  • Điều trị những triệu chứng do ung thư
    Khi ung thư hay việc điều trị ung thư gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng đến việc ăn uống bình thường, những thay đổi là cần thiết để cung cấp đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân. Thu*c có thể được dùng để kích thích khẩu vị.
  • Tương tác giữa thực phẩm và Thuốc
    Bệnh nhân ung thư có thể được điều trị bằng một số loại Thuốc khác nhau. Kết hợp thức ăn và các loại Thuốc có thể làm giảm hoặc thay đổi hiệu quả của các loại Thuốc đó hoặc gây ra những tác dụng phụ có thể nguy hiểm đến tính mạng
  • Thận trọng dùng Thuốc chẹn canxi trong bệnh cao huyết áp, tim mạch
    Thuốc chẹn canxi (CCB= calcium channel blocker) ngăn không cho dòng canxi vào nội bào, làm cản trở quá trình co cơ.
  • Ứng dụng của doxycycline trong điều trị nhãn khoa
    Doxycycline là một kháng sinh nhóm cycline, từ lâu được dùng để điều trị bệnh trứng cá đỏ, viêm tiết niệu, viêm dạ dày - ruột, nhiễm Chlamydia...
  • Tự điều trị cao huyết áp
    Cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề.
  • Điều trị cao huyết áp không dùng Thuốc
    Trong các phương pháp điều trị bệnh cao HA, bên cạnh việc dùng Thuốc có những phương pháp mang tính cổ truyền có thể giúp mọi người phòng ngừa và điều trị tốt bệnh này.
  • Hỗ trợ điều trị viêm bàng quang
    Viêm bàng quang, niệu đạo là một bệnh lý rất thường gặp với các triệu chứng sốt, đau tức bụng dưới, táo bón, đái dắt, đái khó, đái buốt, đái đục hoặc có mủ,…
  • Điều trị ra mồ hôi trộm bằng y học cổ truyền
    Đối với YHCT, ra mồ hôi trộm hay còn gọi là chứng Đạo hãn, nguyên nhân phần lớn do âm huyết không đầy đủ hoặc hoạt động công năng của khí bị cản trở. Bài viết cung cấp các thể điển hình của đạo hãn và một số phương pháp chữa trị.
  • Chăm sóc răng miệng trong điều trị ung thư
    Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY