Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu tăng cao ở người béo phì, có tiền sử nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim ứ huyết.
Huyết khối tĩnh mạch sâu (HKTMS) là một bệnh tim mạch thường gặp, đứng vào hàng thứ ba trong cácbệnh tim mạch. Bệnh thường gặp ở người lớn tuổi và gây ra những trường hợp đột tử mà phần lớn nạnnhân không biết do thuyên tắc động mạch phổi.
Các yếu tố nguy cơ
Khi một huyết khối nhỏ (cục máu đông) hình thành ở tĩnh mạch sâu, nó sẽ gây ra phản ứng viêm vàkích thích tạo thêm các huyết khối mới. Nguy cơ hình thành HKTMS tăng lên khi lưu lượng máu giảmhoặc ứ trệ tuần hoàn ở tĩnh mạch chi dưới. Điều này thường xảy ra khi bệnh nhân không thể cử độngđược trong một thời gian dài. Máu càng ứ đọng trong tĩnh mạch, huyết khối càng dễ hình thành. Cácyếu tố nguy cơ của HKTMS gồm:
- Người từ 70 tuổi trở lên.
- Ung thư đang trong thời kỳ hoạt động hoặc đang điều trị được 6 tháng.
- Phẫu thuật hoặc chấn thương vùng chậu hay chi dưới.
- Phẫu thuật cần gây mê kéo dài trên 5 giờ.
- Du lịch gần 2.000 km trong 12 tuần trước đó.
- Điều trị bằng estrogen/progesterone.
- Nằm liệt giường trên 3 ngày hoặc phẫu thuật trong vòng 4 tuần trước đó.
- Đa số trường hợp HKTMS thường xảy ra trên những bệnh nhân trải qua phẫu thuật, đau ốm, đượcđiều trị nội trú.
- Nguy cơ HKTMS tăng cao ở người béo phì, có tiền sử nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim ứ huyết,có thai, cho con bú, sử dụng Thu*c ngừa thai hoặc bị viêm loét đại tràng.
Biện pháp phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu tốt nhất hiện nay làtăng cường tập thể dục Ảnh: Hoàng Triều
Diễn biến phức tạp
Thường khoảng 60% bệnh nhân có cục máu đông kéo dài mà không làm nghẹt lòng tĩnh mạch. Nhữngbệnh nhân này có thể bị thuyên tắc phổi dẫn đến Tu vong mà không có dấu hiệu hay triệu chứng tại vịtrí khởi phát. Thay vào đó, thường có những yếu tố khác xuất hiện như sốc, nhiễm trùng, chấnthương, suy tim xung huyết; già, béo phì, có thai, bệnh ác tính… Ở 40% bệnh nhân còn lại thì huyếtkhối làm nghẹt lòng tĩnh mạch, gây đau chi và phù nề…
Hiện nay, người ta thấy những trường hợp thuyên tắc phổi nặng thường xuất phát từ phần tĩnh mạchgần của chi dưới. Thuyên tắc phổi trên lâm sàng nặng hay nhẹ tùy thuộc kích thước của huyết khối vàtình trạng tim, phổi của bệnh nhân.
Phần lớn bệnh nhân có HKTMS đều phải nhập viện điều trị. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có thể điềutrị tại nhà với sự chăm sóc của nhân viên y tế với một số điều kiện như: huyết khối nhỏ, triệuchứng ít, có thể đi bộ được, không có bệnh khác, không khó thở và không nghi ngờ thuyêntắc phổi...
Phòng ngừa HKTMS
Biến chứng quan trọng của HKTMS là thuyên tắc động mạch phổi, đó là một tình trạng tắc củađộng mạch phổi hay một trong các nhánh của nó do các cục máu đông xuất phát từ HKTMS. Nguy cơthuyên tắc phổi gia tăng trong nhiều trường hợp như ung thư và nằm bất động kéo dài.
Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 100.000-200.000 trường hợp Tu vong do thuyên tắc phổi và chỉ có 30%được chẩn đoán trước khi Tu vong, số còn lại chỉ được phát hiện sau khi xét nghiệm tử thi. Cáctriệu chứng của thuyên tắc phổi bao gồm khó thở, đau ngực khi hít vào, ho ra máu và đánh trốngngực. Các trường hợp thuyên tắc phổi nặng có thể dẫn đến hôn mê, choáng và ngưng tim đột ngột.
Biện pháp phòng ngừa HKTMS tốt nhất hiện nay là tăng cường tập thể dục bằng cách đi bộ, pháthiện sớm những trường hợp có HKTMS để điều trị, vận động sớm sau phẫu thuật, sử dụng vớ y khoa(nhất là khi đi máy bay lâu trên 4 giờ) cho những người có yếu tố nguy cơ, sử dụng Thu*c kháng đôngkhi có chỉ định của thầy Thu*c...
Hai phương pháp điều trị
Điều trị kháng đông đầy đủ là liệu pháp chính trong bệnh HKTMS, bắtđầu bằng Thu*c Heparin và sau đó là dẫn xuất coumarine để chống tái phát huyết khối. Một phươngpháp khác là điều trị tiêu sợi huyết, nghĩa là làm tiêu cục huyết khối và duy trì chức năng các vantĩnh mạch.
Người ta làm một số thử nghiệm để so sánh cách điều trị tiêu sợihuyết và điều trị kháng đông tiêu chuẩn thì thấy rằng huyết khối mất hoàn toàn ở 45% bệnh nhân đượcđiều trị với tác nhân tiêu sợi huyết, trong khi chỉ loại trừ được huyết khối ở 4% bệnh nhân dùngHeparin.
Trong trường hợp không sử dụng được Thu*c kháng đông hoặc dùngkháng đông thất bại thì cần đến các phương pháp điều trị xâm lấn hơn, đó là phẫu thuật lấy huyếtkhối hay đặt lưới lọc tĩnh mạch chủ dưới.
Theo PGS.TS Nguyễn Hoài Nam - Người lao động