Bệnh do ký sinh trùng đường ruột gây ra là một bệnh khá phổ biến ở nước ta. Bệnh chủ yếu lây truyền qua thức ăn, nước uống thiếu vệ sinh.
Bệnh do
ký sinh trùng đường ruột
gây ra là một bệnh khá phổ biến ở nước ta. Bệnh chủ yếu lây truyền qua thức ăn,
nước uống thiếu vệ sinh. Hầu hết bệnh do
ký sinh trùng đường ruột không gây
được miễn dịch bảo vệ và có khả năng tái nhiễm cao, do đó phòng bệnh và dùng
Thuốc vẫn là giải pháp chính để kiểm soát các loại bệnh này.
Bệnh do amip
Đây là bệnh do nhiễm đơn bào
Entamoeba histolytica. Bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc
đại tràng và có khả năng gây ra các ổ abces ở những cơ quan khác nhau. Bệnh có
xu hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực. Bệnh lây qua
đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống nhiễm kén amip. Biểu hiện giai đoạn cấp là
đau bụng, đại tiện nhiều lần phân ít, nhiều nhầy mũi máu, đau quặn bụng, đau
rát hậu môn, sốt nhẹ; biểu hiện giai đoạn muộn chủ yếu là các triệu chứng đau
dọc khung đại tràng, rối loạn tiêu hóa với các đợt táo lỏng xen kẽ; kèm theo có
các đợt bùng phát lan tỏa giống giai đoạn cấp. Điều trị hiện nay chủ yếu dùng
nhóm imidzole (metronidazole, tinidazole, ornidazole). Loại Thuốc này có ưu
điểm diệt được cả thể kén và thể đơn bào amip, nhưng khi dùng Thuốc kéo dài cần
lưu ý vì có thể gặp tác dụng phụ như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng
vị, nổi mày đay... các dấu hiệu này thường nhẹ và hết sau khi cơ thể đào thải
hết Thuốc. Thuốc không dùng cho phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ
cho con bú.
Nhiễm giun
Giun kim: Loại giun này chủ
yếu gây nhiễm ở lứa tuổi trẻ em. Nhiễm do thức ăn hoặc nước bẩn có chứa trứng
giun, nhiễm tự nhiên ở trẻ em theo đường phân - tay - miệng. Biểu hiện chủ yếu
là trẻ em bị ngứa hậu môn làm mất ngủ, do gãi có thể gây ra các vết xước quanh
hậu môn, trẻ gái có thể bị viêm âm hộ *m đ*o. Điều trị bằng mebendazole,
flubendazole hoặc albendazole.
Giun đũa: Bệnh do nhiễm loại
Ascaris lumbricoides. Lây nhiễm do ăn hoặc uống nước có nhiễm trứng giun. Điều
trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole. Thuốc cần uống theo chỉ
định của bác sĩ.
Giun móc: Bệnh thường gặp ở
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm. Giun trưởng thành dài 1 -
2cm sống ở tá tràng và hỗng tràng, mỗi con hút máu khoảng 0,2ml/ngày, sống
trung bình 5 năm do đó gây tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Điều trị bằng
mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun lươn: Là loại
Strongyloides stercoralis, loại giun này nhỏ dài 2 - 3cm, sống ở đoạn đầu ruột
non, ít gặp hơn giun đũa và giun móc; ký sinh nhiều năm trong cơ thể vật chủ.
Phát triển ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới nóng ẩm. Điều trị đặc hiệu là
dùng thibendazole, có thể điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc
albendazole.
Giun tóc: Do loại Trichiuris
Trichiura sống ở đại tràng, thường gặp nhất ở khu vực kém vệ sinh. Lây nhiễm do
thức ăn, đồ uống sống, bẩn chứa trứng giun. Thường không có triệu chứng, phát
hiện tình cờ qua xét nghiệm phân. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc
albendazole.
Nhiễm sán
Sán xơ mít: Gồm Taenia
saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, dài 6-10m; Biểu hiện
khi nhiễm: đau bụng mơ hồ, không đặc hiệu, chán ăn hoặc ăn không biết no. Điều
trị bằng nicosamid hoặc praziquantel.
Sán máng: Còn gọi là bệnh
Bilharzia do loài sán dẹt Schistosoma gây ra. Lây nhiễm bắt đầu từ ấu trùng
sống trong nước ngọt xâm nhập vào da bệnh nhân, sau đó theo các tĩnh mạch và
bạch mạch về gan. Biểu hiện lâm sàng giai đoạn cấp thường xuất hiện vào tuần
thứ 4 - 6, với các triệu chứng đau đầu, sốt, rét run, ho, đau cơ, đau khớp, gan
to đau, tăng bạch cầu ái toan. Nếu không được điều trị sẽ chuyển sang mạn tính
với các biến chứng tại gan... Điều trị bằng praziquantel, đây là Thuốc thông
dụng nhất trong điều trị bệnh sán máng ở người vì hoạt tính tác dụng của chúng
chống lại được tất cả các chủng sán máng. Nếu bệnh nhân không đáp ứng với Thuốc
này, có thể dùng oxamniquin. Oxamniquin là Thuốc trị sán máng bán tổng hợp, có
tác dụng trên cả dạng trưởng thành và chưa trưởng thành, nhưng không có tác
dụng diệt ấu trùng. Thuốc chống chỉ định với người bị bệnh động kinh, rối loạn
tâm thần, phụ nữ có thai và cho con bú. Tác dụng phụ thường gặp là chóng mặt,
buồn ngủ, đau đầu, buồn nôn, tiêu chảy, ngứa, mày đay…
Sán lá gan lớn: Do nhiễm loài
sán Fasciola hepatica. Biểu hiện lâm sàng chia làm 3 giai đoạn, biểu hiện cấp
tính là giai đoạn ấu trùng vào gan, các triệu chứng sẽ là sốt, đau vùng gan,
tăng bạch cầu ái toan, gan to, chức năng gan bị tổn thương; giai đoạn tiềm tàng
biểu hiện với các triệu chứng rối loạn tiêu hóa mơ hồ, đây là lúc sán khu trú
trong đường mật; giai đoạn tắc nghẽn là hậu quả của viêm và phì đại đường mật.
Thuốc được lựa chọn trong điều trị sán lá gan lớn hiện nay là triclabendazol
hoặc bithionol. Tốt nhất là khi đã thấy các biểu hiện nghi ngờ, người bệnh nên
đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn, xét nghiệm và điều trị.
Sán lá gan nhỏ: Trứng sán nở
trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá,
đóng nang, người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi
cá) sẽ mắc bệnh. Biểu hiện lâm sàng âm thầm và không đặc hiệu với sốt, đau bụng
và tiêu chảy. Nếu để lâu dài không điều trị sẽ dẫn đến các biến chứng viêm
đường mật, xơ quanh khoảng cửa, có thể xuất hiện ung thư biểu mô đường mật. Khi
được phát hiện kịp thời, bệnh sán lá gan nhỏ có đáp ứng tốt với các Thuốc điều
trị. Praziquantel là Thuốc được lựa chọn hàng đầu trong việc điều trị bệnh sán
lá gan nhỏ. Người bệnh mắc sán lá gan cần phải theo dõi điều trị tại các
cơ sở y tế có chuyên khoa
ký sinh trùng.
ThS. Nguyễn Thu Hiền