MangYTe

Tâm linh hôm nay

Lịch sử Phật giáo và dân tộc Việt Nam (P.1)

Thời tiền Lê biết trọng dụng các danh Tăng để làm quốc sư và đối ngoại với Đại Hán như Thiền sư Khuông Việt và Thiền sư Đỗ Pháp Thuận; chứng tỏ, Phật giáo lúc bấy giờ có một tầm ảnh hưởng nhất định trong xã hội.
Mục lục

Lời giới thiệu: Qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình, thịnh vượng. Chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi. Những nhân vật lịch sử đó, rải rác trên những trang quốc sử và giáo sử, nhưng chưa được kết tập cho hậu học hình dung tổng quát theo chiều dài lịch sử


Với yêu cầu của một số người có t*m đ*o với đạo Phật, có thiện chí với xã hội, có lòng hộ quốc an dân với đất nước, muốn những nhân vật lịch sử vừa có công với đời vừa phát huy truyền thống đạo Phật được liệt kê qua vài trang tổng quát, dĩ nhiên chưa thể đầy đủ, nhưng vẫn nêu lên được hình ảnh những nhân vật kiệt xuất từ xưa đến cận đại. Nay xin giới thiệu tập sách mỏng này như một món quà để người phật tử có điều kiện biết và ghi ân tiền hiền liệt Tổ của chúng ta.


LỊCH SỬ

PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM


LỜI ĐẦU


Huyền sử con Rồng cháu Tiên thoát thai từ trăm trứng, 50 con xuống biển, 50 con lên núi để dân tộc mãi mãi là biểu tượng phân ly, trong tôn giáo và trong bất cứ tổ chức nào một khi đã hình thành.


Cũng từ con Rồng cháu Tiên đã phát sanh lắm anh tài, thông minh và thao lược. Hàng ngàn năm bia sử, vô số tài năng xuất chúng đóng góp cho quê hương trong nhiều lãnh vực, nhưng những bậc anh minh vừa có công dựng nước, chống ngoại xâm, vừa chăm lo cuộc sống cho dân chúng về vật chất lẫn tâm linh thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những bậc xuất chúng như thế, lịch sử Việt Nam ta đã đậm nét ghi công, cho dù thời gian và thể chế khác nhau, cũng không thể xóa mờ hào quang một thời của những bậc anh kiệt như thế.


Việt sử cũng như giáo sử, các nhân vật lừng danh, đấu tranh chống ngoại xâm, chấn hưng Phật giáo không thiếu. Nhiều điểm son hàng ngàn năm qua chưa phai nhòa, lưu lại cho con cháu một dấu ấn lịch sử để hãnh diện và tiếp bước cha ông đến hôm nay.


Tuy vậy, những danh nhân vừa mang dòng máu Lạc Việt, vừa thấm đượm tinh thần Phật học, hòa quyện Phật học với xã hội, vừa thi triển nhiệm vụ bảo vệ đất nước vừa chấn hưng đạo đức tín ngưỡng trên đôi vai gánh nặng xã tắc và tâm linh, là bậc hy hữu đối với một dân tộc nhỏ bé như đất nước ta vào những thế kỷ xa xưa. Con cháu chúng ta không được phép xao lãng, có bổn phận phải ghi ân, tưởng nhớ những hiền nhân Thánh trí đó, nuôi dưỡng hào khí dân tộc để tự đứng trên đôi chân mà dũng tiến.


Rất nhiều những nhân vật có công với tổ quốc nhưng không liên can gì đến đạo Phật, cũng không ít các bậc chân sư hiền tài trong Phật giáo mà không đóng góp mở mang phát triển đất nước, làm rạng danh đôi bề, vì thế, những trang sử sau đây nêu lên những nhân vật lịch sử vừa sáng danh đạo vừa hiển hách với đất nước, hẳn nhiên chưa được đầy đủ, nhưng cũng góp một phần nhỏ cho đàn hậu học sưu tầm.


MỐC LỊCH SỬ


Lịch sử khai quốc từ 18 đời vua Hùng, cho dù mang tính huyền thoại nhưng là một hào khí linh kiệt kéo dài suốt thời lập quốc, mở mang bờ cõi đến bảo vệ lãnh thổ, luôn là những vầng hào quang của dân tộc. Một loại hào quang không tự khiên cưỡng cố tạo mà là một thực lực thể hiện bản chất nghị lực và tài năng của một dân tộc: đó là hồn thiêng sông núi thẩm thấu vào máu huyết của một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường trước bao sức mạnh của kẻ xâm lăng. Mãi gần 5.000 năm qua, vẫn hiên ngang nằm một góc nhỏ trên bản đồ thế giới.


TRIỆU ĐÀ VÀ SĨ NHIẾP


Vị thế văn hoá-chính trị như một nhà lãnh đạo Phật giáo của Sĩ Nhiếp đã trở thành vị thế văn hoá-chính trị của những vị minh quân-anh hùng dân tộc đã khai sáng những thời đại độc lập và vinh quang cho đất nước Việt Nam, từ Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đến Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, và các chúa Nguyễn trong buổi đầu lập quốc và dựng nước ở Đàng Trong, như Nguyễn Hoàng (chúa Tiên), Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), Nguyễn Phúc Lan (chúa Hiền), Nguyễn Phúc Tần (chúa Nghĩa), Nguyễn Phúc Chu (xứng đáng để được tôn vinh là chúa Phật). Nguyễn Phúc Chu là người đã đúc đại hồng chung nặng 3.285 ký ở chùa Linh Mụ và tự tay viết lời chú được khắc trên chuông: ta không muốn gì cho ta, cho triều đại ta, ta chỉ muốn mưa thuận gió hoà, quốc gia thái bình, nhân dân an lạc và tất cả mọi người đều thành Phật: “Quốc Chúa Đại Việt Nguyễn Phước Châu, nối dòng phái Thiền Tào Động chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, đúc đại hồng chung cân nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Linh Mụ, để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo, chú nguyện mưa hoà gió thuận, quốc thái dân an, chúng sanh trong pháp giới đều thành đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày Phật đản tháng tư năm Canh Dần (1710)”.

Ðây quả thực là lời chú nguyện tuyệt vời của một vị quân vương Phật tử nhiệt thành, gương mẫu, siêu hùng. Tương tự, giáo sư Lê Mạnh Thát cũng khẳng định trong tác phẩm nghiên cứu về Mâu Tử: từ thế kỷ thứ hai, nghĩa là cách đây hơn 1.800 năm, Việt Nam đã có một chính quyền độc lập, và đây cũng là chính quyền mang đậm màu sắc Phật giáo, lấy Phật giáo làm chủ đạo văn hoá-chính trị của thời đại.

Thiền sư TÔNG DIỄN hiệu CHÂN DUNG

(1640 - 1711)- Đời pháp thứ 37, tông Tào Động.


Thiền sư Tông Diễn không biết tên tục, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Khi Sư được 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con giã cua nấu canh. Sư định làm như lời dặn, nhưng nhìn thấy những con cua tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt; Xót thương quá đem thả hết. Bà mẹ lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đây đứa con trai bà mất luôn.

Khoảng hơn ba mươi năm sau, đã thành Hòa thượng trụ trì, Sư nhớ đến mẹ liền về quê cũ tìm kiếm. Sư tìm gặp mẹ bán quán trà. Sư mở lời rước bà về chùa. Sư cho cất một am tranh gần chùa, Sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở Bà tu hành.

Trong quyển Hồng Phúc Phổ Hệ có những đoạn tán thán công đức của Sư:

“Diêu văn Đại Thánh Sư, thần đức nan tuyên giả, chỉ tích mẫu quan phi, niệm kinh Bảo Liên Hoa, đầu đơn đế nhãn minh, tiến ngọc quân vương tạ...”

Nghĩa là: “Xa nghe thầy Đại Thánh, thần đức khó nói hết, gậy chỉ quan (tài) mẹ bay, tụng kinh Bảo Liên Hoa, nạp đơn vua mắt sáng, dâng ngọc quân vương tạ (ơn)...”.

Sư trụ trì ở Đông Sơn nghe Thiền sư Thông Giác từ Trung Quốc đắc đạo trở về ở chùa Vọng Lão trên núi Yên Tử, liền tìm đến yết kiến. Thiền sư Thông Giác cho Sư pháp danh Tông Diễn. Ngài nói kệ trao pháp:


Tất cả pháp chẳng sanh

Tất cả pháp chẳng diệt

Phật Phật, Tổ Tổ truyền

Uẩn không sen đầu lưỡi.

(Nhất thiết pháp bất sanh

Nhất thiết pháp bất diệt

Phật Phật, Tổ Tổ truyền

Uẩn không liên đầu thiệt.)


Từ đây Sư luôn theo hầu dưới gối. Đến năm 32 tuổi, Sư thọ cụ túc giới, xin phép Thiền sư Thông Giác đi hành cước tham vấn các nơi.

Năm niên hiệu Vĩnh Trị (1678) vua Lê Hy Tông ra lệnh cho các quan khắp nước bất cứ ở đâu tăng, ni hoặc già hoặc trẻ đều đuổi hết về rừng núi. Sư biết được tin này rất đau lòng. Sư bèn quyết tâm rời chốn sơn dã về đất thần kinh, mong cảnh tỉnh nhà vua, cứu vãn Phật pháp trong khi T*i n*n. Ngài nhờ quan Đề Lĩnh tâu lên vua là có ngọc quý dâng hiến. Vị quan văn bưng hộp ngọc đến trước triều dâng lên vua, khi mở ra xem chỉ là một tờ biểu, chớ không có hòn ngọc nào. Vua phán vị quan văn đọc tờ biểu cho vua nghe. Vua nghe qua thấy lý lẽ rõ ràng, sự tình đầy đủ, lời văn sáng suốt, ý tứ thâm trầm, bèn ra lệnh quan Đề Lĩnh dẫn vị tăng này vào triều.

Khi vào triều, vua cho Sư ngồi một bên trước mặt vua. Vua hỏi những sách lược trị dân, Sư ứng đối sự lý rất dung thông. Khi ấy, vua phán: “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.” Vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung sứ đến nói với vua thỉnh Sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe thấu hiểu đạo lý, liền ban cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chính pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để tăng ni tự ý trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa.

Vua Lê Hy Tông đã thấm nhuần đạo lý, thành tâm sám hối lỗi trước của mình, nên tạc hình vua quì mọp để tượng Phật trên lưng để tỏ lòng thành sám hối. Tượng này hiện còn thờ ở chùa Hồng Phúc.

Đã giải được ách nạn của tăng ni (Phật pháp) và giáo hóa được vua chúa trong triều, Sư nghỉ việc xin vua về núi thăm thầy. Sau Sư trụ trì ở chùa Hồng Phúc, thường tới lui giảng đạo cho vua chúa nghe. Sư thọ 72 tuổi.

Còn nữa...
Minh Mẫn

Minh Mẫn

Mạng Y Tế
Nguồn: Phật giáo (https://phatgiao.org.vn/lich-su-phat-giao-va-dan-toc-viet-nam-p1-d13838.html)

Tin cùng nội dung

Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY