Xin cho hỏi mộc hương có được trồng ở nước ta không? Được dùng để chữa bệnh gì?Công dụng và liều dùng ra sao?
(Lê Ái Dũng - Bình Phước)
Trên thị trường có nhiều loại mộc hương nhưng sau đây là 2 vị chính:
Quảng còn gọi là vân (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân (Saussurea lappa Clarke) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae.
Thổ còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị cũng thuộc họ Cúc như vị xuyên mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook.F., nhưng có tác giả lại xác định là jurinca aff souliei Franch.
Ta đã di thực được 2 loài quảng mộc hương và thổ mộc hương. Hiện đang phát triển.
Cây quảng mộc hương hay vân mộc hương là một cây sống lâu năm, rễ to mẫm, đường kính có thể đạt tới hơn 5cm, vỏ ngoài màu nâu nhạt. Phía gốc có lá hình 3 cạn tròn, dài 12 - 30cm, rộng 6 - 15cm, cuống dài 20 - 30cm có dìa, mép lá nguyên và hơi lượn sống, hai mặt đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Trên thân cũng có lá hình 3 cạnh, nhưng càng lên trên kích thước lá càng nhỏ dần, mép có răng cưa, cuống lá càng lên cao càng ngắn lại, phía trên cùng lá gần như không có cuống hay có khi như ôm lấy thân cây. Hoa hình đầu, màu lam tím.Quả bế, hơi dẹt và cong queo, màu nâu nhạt, có những đốm màu tím.Mùa hoa vào các tháng 7 - 9, mùa quả vào các tháng 8 - 10.
Cây thổ mộc hương cũng là một cây sống lâu năm, cao 0,50 - 1,50m. Phía gốc có lá to, dài tới 40cm, trên thân có lá mọc so le nhỏ ơn, dài 10 - 30cm, phí cuống có hai tai ôm lấy thân, mép có răng cưa kông đều. Cụm hoa hình đầu, hoa màu vàng.Quả bế, dài 4mm, trên có vân dọc.
Từ trước đến nay ta vẫn phải nhập mộc hương của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cũng phải nhập vị quảng mộc hương của nước khác. Vị này nguồn gốc ở Ấn Độ, sau mới di thực và được trồng ở Vân Nam, do đó có tên vân mộc hương (mộc hương của Vân Nam). Tên quảng mộc hương do nhập từ Ấn Độ vào tỉnh Quảng Đông, rồi từ đó truyền đi toàn Trung Quốc.
Theo tài liệu cổ mộc hương vị cay, đắng tính ôn, vào 3 kinh phế, can và tỳ. Có tác dụng kiện tỳ hòa vị, điều khí chỉ thống, an thai, chữa ngực bụng đầy, đau, tả lỵ, nôn mửa, lỵ cấp hậu trọng.
Vân mộc hương mới chỉ thấy dùng trong đông y làm Thu*c giúp sự tiêu hóa, bổ dạ dày, mạn tim, trừ đờm, lợi tiểu, đặc biệt hay dùng trong trường hợp đầy hơi, đầy lên ngực hay ợ. Còn có tác dụng chữa đau bụng đi lỵ và cho vào quần áo để phòng nhậy khỏi cắn.
Thổ mộc hương được dùng trong cả đông y và tây y làm Thu*c giúp sự tiêu hóa, ăn ngon cơm, thông tiểu, chữ a ho bạch đới, thiếu máu. Đối với người lao, thổ mộc hương làm giảm ho, đỡ đau ngực, ăn ngon hơn. Cũng có tác dụng đối với ho gà, trẻ con đi ỉa chảy.
Liều dùng 3 - 6g dưới dạng Thu*c sắc hay Thu*c bột.
GS. ĐỖ TẤT LỢI
((Theo Những cây Thu*c và vị Thu*c Việt Nam))