MangYTe

Sức khỏe hôm nay

Có hay không lợi ích khi tiêm vaccin ung thư cổ tử cung ở người luống tuổi?

Trước hết cần nhận thức chính xác nhiễm virut Papilloma ở người (HPV) là điều kiện cần để dẫn đến ung thư cổ tử cung
Mục lục
Thời gian gần đây báo chí đã đề cập khá nhiều thông tin về vaccin phòng ung thư cổ tử cung (UTCTC) đã có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến không thống nhất đã làm không ít người không những không thấy được lợi ích của vaccin mang lại cho cộng đồng mà còn cảm thấy hoang mang về cơ sở khoa học của vaccin. Bài viết này đề cập đến cơ sở khoa học vững chắc về những lợi ích của việc tiêm vaccin dự phòng ung thư cổ tử cung đã được công bố trên những tạp chí y học chuyên ngành quốc tế.

Hàng năm trên thế giới có khoảng 500.000 trường hợp mắc mới UTCTC và hơn một nửa số phụ nữ mắc bệnh đã Tu vong. Ở Việt Nam có hơn 6.000 trường hợp mắc mới hàng năm và Tu vong khoảng 2.700 trường hợp.

Có phải nhiễm bất kỳ týp HPV nào cũng có thể bị ung thư cổ tử cung?

Trước hết cần nhận thức chính xác nhiễm virut Papilloma ở người (HPV) là điều kiện cần để dẫn đến UTCTC. Tuy nhiên không phải tất cả các loại HPV đều có thể gây ung thư. Trong số hơn 100 týp HPV đã được định danh, chỉ có 15 týp có khả năng gây ung thư hay còn gọi là tuýp nguy cơ cao (4). Các týp khác được xem là nguy cơ thấp có thể gây các tổn thương lành tính vùng Sinh d*c. Trong số 15 týp có thể gây ung thư, 2 týp HPV-16 và HPV-18 là nguyên nhân của ít nhất 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Trong những týp HPV gây ung thư còn lại, 2 týp HPV-31 và 45 gây ra thêm ít nhất 10% nữa (2).

Ai có nguy cơ nhiễm HPV?

Phụ nữ từ khi bắt đầu quan hệ T*nh d*c là đã có nguy cơ nhiễm HPV và nguy cơ này tồn tại suốt cuộc đời. Kết quả nghiên cứu của Basemen (2005) cho thấy có khoảng 80% phụ nữ đã từng nhiễm HPV một lần trong đời, tỷ lệ mắc cao nhất là ở nhóm tuổi trẻ và giảm dần ở các lứa tuổi cao hơn. Tuy nhiên, hàng năm, tỷ lệ nhiễm mới HPV các týp gây ung thư ở phụ nữ tuổi từ 25-80 chiếm khoảng 5-10% (3), (5), (6). Phần lớn phụ nữ bao gồm cả phụ nữ trung niên vẫn có thể nhiễm mới HPV các týp gây ung thư trong suốt đời sống T*nh d*c của họ, và do đó họ vẫn tiếp tục có nguy cơ mắc các tổn thương tiền ung thư và ung thư xâm lấn cổ tử cung.

Số liệu dịch tễ cho thấy có một số lượng đáng kể các ca nhiễm HPV mới xảy ra ở phụ nữ lớn tuổi, điều này có nghĩa là nguy cơ nhiễm mới và tái nhiễm với những týp HPV sinh ung thư tồn tại suốt cuộc đời người phụ nữ [6]. Hơn nữa ở những phụ nữ trung niên, một khi đã nhiễm HPV thì nguy cơ HPV tồn tại dai dẳng cao hơn ở phụ nữ trẻ, do đó phụ nữ lớn tuổi một khi nhiễm HPV thì có nhiều nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung hơn. Điều này cho thấy phụ nữ trên 25 tuổi được chủng ngừa HPV là cần thiết vì những đợt nhiễm mới vẫn tiếp tục xảy ra ở nhóm tuổi này.

Những phụ nữ đã từng nhiễm HPV thì có nên tiêm phòng?

Không giống như nhiễm hầu hết các virut khác, khi nhiễm HPV tự nhiên thì cơ thể con người không thể sinh ra được kháng thể đủ để có thể giúp chống lại những lần tái nhiễm về sau. Điều này là do HPV chỉ gây ra miễn dịch tại chỗ và hàm lượng kháng thể được sinh ra là rất thấp. Kháng thể sinh ra do nhiễm tự nhiên này không cung cấp sự bảo vệ đầy đủ cho cơ thể chống lại những lần tái nhiễm với cùng một týp HPV hoặc với týp HPV khác có tương đồng hệ gen (Viscidi, 2004). Vì thế việc tiêm vaccin không chỉ có ích đối với những người chưa quan hệ T*nh d*c để bảo vệ ở lần nhiễm đầu tiên, mà còn cần thiết cho những người đã từng nhiễm HPV để ngăn ngừa những lần tái nhiễm HPV sau này có thể gây ung thư cổ tử cung.

Một điểm đáng lưu ý là trong tổng số các phụ nữ tham gia chương trình khám sàng lọc bằng soi tế bào cổ tử cung để phát hiện tế bào ung thư (Pap smear) trong nghiên cứu của Bosch (1), tỷ lệ nhiễm cùng một lúc cả 2 týp HPV-16 và HPV-18 là dưới 1%. Do đó, hơn 90% phụ nữ vẫn có thể được bảo vệ khỏi một trong những týp HPV có trong vaccin. Với hầu hết phụ nữ chỉ nhiễm một týp thì vaccin sẽ bảo vệ đối với các týp gây ung thư còn lại.

Vaccin có tác dụng gì đối với phụ nữ trưởng thành?

Kết quả nghiên cứu về tính sinh miễn dịch của vaccin cervarix – vaccin ngừa ung thư cổ tử cung do HPV-16 và 18 cho thấy 100% phụ nữ đến 55 tuổi có chuyển đổi huyết thanh với cả 2 týp HPV-16 và 18 sau khi tiêm. Mặc dù nồng độ kháng thể tạo ra sau tiêm vaccin tuy không cao bằng phụ nữ trẻ tuổi nhưng vẫn cao ít nhất gấp 8 lần so với kháng thể do nhiễm HPV tự nhiên sinh ra. Hiệu giá kháng thể đạt cao ở nhóm phụ nữ 26 tuổi trở lên, ngang với mức kháng thể mà hiệu quả bảo vệ đã được khẳng định trong các nghiên cứu trước đó ở phụ nữ 10-25 tuổi (6). Điều này có được chủ yếu nhờ vào thành phần chất bổ trợ đặc biệt có trong vaccin. Chất bổ trợ này được cho là có tác dụng kích thích miễn dịch, giúp tạo được kháng thể ở mức cao và bền vững trong nhiều năm.

Một nghiên cứu dựa trên mô hình toán học của Elbasha EH và cộng sự đăng trên tạp chí Emerging Infectious Diseases tháng 1/2007 về tác động của vaccin phòng HPV-16 và 18 đến tỷ suất mắc mới ung thư cổ tử cung cho thấy, nếu chỉ áp dụng chủng ngừa cho trẻ em gái 12 tuổi thì phải mất hơn 30 năm mới giảm được một nửa số ca mắc hiện nay. Khi áp dụng chủng ngừa cho phụ nữ từ 12 đến 26 tuổi thì có thể đạt được mức này trong vòng 20 năm. Và nếu việc chủng ngừa được mở rộng cho lứa tuổi từ 12 đến 55 năm thì tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung sẽ giảm còn 1/3 trong vòng chỉ 10 năm.

Cũng cần phải khẳng định rằng chủng ngừa là một biện pháp dự phòng cấp 1 hữu hiệu trong việc phòng ngừa nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung là nhiễm HPV, nhưng không có nghĩa là chủng ngừa thay thế hoàn toàn biện pháp dự phòng cấp 2, đó là sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng Pap smear. Hiện nay đối với những phụ nữ đã có quan hệ T*nh d*c, sau khi chủng ngừa vẫn cần tiếp tục khám sàng lọc để bảo đảm được bảo vệ tốt nhất khỏi ung thư cổ tử cung.

Những phân tích trên cho thấy rõ ràng việc tiêm phòng cho phụ nữ trên 25 tuổi mang lại lợi ích đáng kể và giải quyết phần nào nhu cầu y tế chưa được đáp ứng. Mặc dù việc chủng ngừa HPV có thể được tập trung trước hết vào đối tượng trẻ vị thành niên, nhưng chủng ngừa cũng cần phải được mở rộng cho phụ nữ lớn tuổi hơn, những người có thể chưa phơi nhiễm virut, hoặc đã phơi nhiễm nhưng không tạo được kháng thể bảo vệ.

Cuối cùng, cần nhìn nhận rằng với tình hình thực tế tại Việt Nam, việc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung qua các chương trình sàng lọc Pap smear mặc dù đã được triển khai nhiều năm nhưng mức độ bao phủ còn hạn chế, do vậy việc áp dụng chủng ngừa cho phụ nữ ở nhiều lứa tuổi hy vọng sẽ góp phần đáng kể giúp giảm số ca ung thư cổ tử cung và bảo vệ sức khỏe phụ nữ.
Tài liệu tham khảo

Bosch F.X (2008). “Epidemiology and natural history of Human Papillomavirus infections and type – specific implications in cervical neoplasia”. Vaccin 26S, K1-K6.

Keam S.J. & Harper D.M.; (2008). “Human Papillomavirus type 16 and 18 vaccin, (recombinant, ASO4 adjuvanted, Adsorbed)”. Drug. 68 (3), 359-372.

Munoz N. (2004). “Against which human papillomavirus types shall we vaccinate and screen? The international perspective”. Int. J. Cancer. 111: 278-285.

Paavonent J et al.(2007). “Efficacy of a prophylactic adjuvanted bivalent L1 virus – like particle vaccin against infection with human papillomavirus types 16, 18 in young women: an interism analysis of a phase III double blind, randomized controlled trial”. Lancet. 369: 2161-70

Sellors. J.W et al. (2003).“Incidence, clearance and predictors of human papillomavius infection in women”. Canadian Medical Association (CMA). 168 (4):421-5.

Skinner S. R et al. (18/2/2008). “Human papillomavirus vaccination for the prevention of cervical neoplasia: it is appropriate to vaccinate women older than 26?”. MJA. Vol.188, number 4, pp.238-242.

GS. TS. Trần Thị Phương Mai

(GS. TS. Trần Thị Phương Mai)

Mạng Y Tế
Nguồn: Nguồn Internet (news-co-hay-khong-loi-ich-khi-tiem-vaccin-ung-thu-co-tu-cung-o-nguoi-luong-tuoi-21885.html)

Tin cùng nội dung

  • Những nét chính về ung thư vùng đầu cổ
    Ung thư vùng đầu – cổ thường bắt nguồn từ lớp tế bào gai nằm lót trong bề mặt ẩm ướt ở vùng đầu cổ (ví dụ như trong miệng, mũi, họng), và thường phát triển thành ung thư biểu mô tế bào gai. Ung thư vùng đầu – cổ cũng có thể bắt nguồn từ các tuyến nước bọt, nhưng tương đối ít gặp. Các tuyến nước bọt chứa nhiều loại tế bào có thể ung thư hóa, vì vậy có nhiều dạng ung thư tuyến nước bọt khác nhau.
  • Nguy cơ ung thư đầu cổ khi tiêu thụ Thuốc lá và lợi ích của việc bỏ Thuốc
    Khói Thuốc lá gây hại cho cả người hút lẫn không hút Thuốc.
  • Tết đến sớm với những bệnh Nhi ung thư nghèo
    Niềm vui và nụ cười nở nhiều hơn trên môi những bệnh nhi ung thư của viện Nhi Trung ương khi được nhận quà Tết từ tay Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến chiều ngày 6/2.
  • Nguy cơ gây ung thư bàng quang của Thuốc Actos
    2 công ty dược phẩm phải trả tới 6 tỉ USD do những cáo buộc che giấu nguy cơ gây ung thư bàng quang của Thuốc Actos
  • Vitamin E có thể gây ung thư tuyến tiền liệt, loãng xương
    Vitamin E là chất chống ôxy hóa, có thể bảo vệ cơ thể khỏi phản ứng có hại của các gốc tự do.
  • Dụng cụ tử cung
    Dụng cụ tử cung (DCTC), là một dụng cụ nhỏ, hình chữ T, phía cuối của dụng cụ được nối với một sợi dây (sợi dây này sẽ được kéo ra ngoài cổ tử cung để có thể kiểm tra định kỳ xem dụng cụ vẫn ở đúng chỗ hay không)
  • Ngăn ngừa suy dinh dưỡng ở người cao tuổi
    Suy dinh dưỡng là khi cơ thể bạn không nhận được đủ chất dinh dưỡng từ các loại thực phẩm bạn ăn để hoạt động tốt. Chất dinh dưỡng bao gồm chất béo, tinh bột, chất đạm, vitamin và các khoáng chất. Những chất này cung cấp năng lượng cho cơ thể của bạn. Chúng giúp cơ thể phát triển, sửa chữa mô và điều hòa các quá trình sống.
  • Nhiễm trùng virus Papilloma (HPV) ở người
    Virus papilloma ở người (HPV) là một loại virus có thể lây truyền từ người này sang người khác qua tiếp xúc da với da.
  • Chăm sóc răng miệng trong điều trị ung thư
    Điều trị ung thư ảnh hưởng đến tất cả bộ phận của cơ thể, trong đó có răng miệng.
  • Ung thư tuyến giáp ở trẻ em
    Ung thư tuyến giáp ở trẻ em là bướu nội tiết ác tính dạng đặc thường gặp thứ 3 và phổ biến nhất ở trẻ em.
Tải ứng dụng Mạng Y Tế trên CH PLAY