Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là bệnh đái tháo đường được phát hiện lúc mang thai, gồm cả bệnh có sẵn trước đó nhưng chưa được phát hiện. Đây là một tình trạng bệnh lý do bất dung nạp đường huyết.
đái tháo đường thai kỳ
(ĐTĐTK) là bệnh đái tháo đường được phát hiện lúc mang thai, gồm cả bệnh có sẵn
trước đó nhưng chưa được phát hiện. Đây là một tình trạng bệnh lý do bất dung
nạp đường huyết.
Thống kê cho thấy tỉ lệ ĐTĐTK
thay đổi tùy theo châu lục (châu Á cao hơn châu Âu, châu Mỹ), quốc gia, sắc tộc
(da trắng ít hơn da màu). Tần suất mắc bệnh dao động từ 1 - 14% số thai phụ.
Dưới góc độ khoa học, trong bốn nhóm Thu*c
điều trị đái tháo đường, insulin
chính là Thu*c tốt nhất, hợp S*nh l* nhất. Gần đây, các nhà bào chế còn tiến
thêm một bước sản xuất được insulin analog, với chức năng vượt trội hẳn insulin
thông thường.
Ảnh hưởng của ĐTĐTK bao gồm:
Ảnh hưởng lên mẹ: tăng huyết
áp, tiền sản giật, sản giật, đa ối, tỉ lệ mổ lấy thai cao, dễ băng huyết sau
sinh.
Ảnh hưởng lên thai nhi: gia
tăng tỉ lệ dị dạng thai, suy hô hấp, thai to nhưng khả năng đề kháng kém, dễ
sang chấn trong lúc chuyển dạ sinh do kẹt vai, rối loạn chuyển hóa đường huyết,
rối loạn chuyển hóa canxi huyết và tăng tỉ lệ bệnh suất và tử suất chu sinh.
Xảy ra như thế nào?
Người mẹ khi có thai thì nồng
độ estrogen và progesterone cao, đặc biệt trong tam cá nguyệt đầu và ở giai
đoạn đầu tam cá nguyệt giữa, do vậy kích thích làm tăng sinh tế bào beta tụy
làm tăng tiết insulin, kéo theo tăng khả năng dự trữ glycogen ở mô, giảm tạo
glycose ở gan, tăng sử dụng glucose ở ngoại vi, dẫn đến đường huyết trong cơ
thể tương đối ổn định. Do đó ở thời điểm ban đầu, khi chúng ta tầm soát đường
huyết cao trên phụ nữ không có bị đái tháo đường thì kết quả sẽ âm tính và dễ
bỏ sót nếu chúng ta không tiếp tục tầm soát và theo dõi nữa ở giai đoạn sau của
thai kỳ.
Tiếp theo giai đoạn sau của
tam cá nguyệt giữa và tam cá nguyệt cuối, do có sự tăng tiết các nội tiết tố
tăng trưởng từ nhau, theo các nhà nghiên cứu thì chính các nội tiết tố này có
liên quan đến tình trạng đề kháng insulin. Nếu lượng insulin tiết ra không đủ
sẽ dẫn đến rối loạn dung nạp đường. Tình trạng này diễn tiến càng nặng khi thai
càng lớn, từ đó gây ra biến chứng cho mẹ và thai nhi. Đặc biệt là những bà mẹ
có các yếu tố nguy cơ thì dễ bị ĐTĐTK. Những bà mẹ có yếu tố nguy cơ: tuổi trên
35, thể trạng béo phì, tiền căn cha mẹ có bị đái tháo đường, tăng huyết áp, bản
thân bị đái tháo đường, tiền căn sinh non, con to, tiền căn sảy thai, thai ch*t
lưu mà không tìm được nguyên nhân…
Chẩn đoán
Hiện nay trên thế giới, có xu
hướng tiêu chuẩn hóa toàn cầu về chẩn đoán ĐTĐTK, bằng cách sử dụng test 75g
đường để chẩn đoán ĐTĐTK cho tất cả các bà mẹ mang thai, có tuổi thai 24 - 32
tuần. Nhiều quốc gia đồng thuận sử dụng ngưỡng giá trị theo tiêu chuẩn này.
Test dương tính khi các giá trị có một trong các chỉ số cao hơn bình thường:
đường huyết lúc đói: 5,1mmol/l, đường huyết sau khi ăn 75g đường: 10,0mmol/l và
sau 2 giờ 8,5mmol/l.
Bà mẹ mang thai, ở tuổi thai
32 tuần trở đi, ở thời điểm này thông thường tình trạng rối loạn dung nạp đường
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, trên mẹ và thai nhi, nên việc sử dụng xét
nghiệm dung nạp đường để chẩn đoán không còn ý nghĩa.
Riêng đối với nhóm bà mẹ mang
thai có yếu tố nguy cơ cao, cần thiết thực hiện xét nghiệm tầm soát sớm ngay ở
tuổi thai 16 - 18 tuần, nếu kết quả âm tính, lặp lại xét nghiệm, vào tuổi thai
24 - 32 tuần, lý tưởng nhất là tuổi thai 28 tuần. Một số tác giả đề nghị, ở
tuổi thai trước 24 tuần nên làm xét HbA1C (Hemoglobin A1c; HbA1c;
Glycohemoglobin; Glycated hemoglobin; Glycosylated hemoglobin).
Những bà mẹ có tiền căn đái
tháo đường, hoặc có yếu tố nguy cơ cần thực hiện tốt và duy trì thường xuyên
chế độ dinh dưỡng và luyện tập. Luôn luôn giữ cho đường huyết ổn định và thông
tin cho bác sĩ sớm về tình trạng sức khỏe bản thân để có kế hoạch phòng ngừa
tốt.
|
Điều trị
Chăm sóc ở bà mẹ bị ĐTĐTK cần
nhiều chuyên khoa: phụ sản, nội tiết, dinh dưỡng và nhi khoa.
Trong lúc mang thai: nguyên
tắc chung của điều trị là điều chỉnh chế độ ăn sao cho đường huyết ở mức 5,7 -
6,1mmol/l. Các bà mẹ cần có một chế độ dinh dưỡng, vận động, làm việc và nghỉ
ngơi hợp lý. Năng lượng nhu cầu hàng ngày trung bình 1.800 - 2.500 calo, trong
khẩu phần ăn giảm mỡ, giảm bột và tăng chất xơ. Các bữa ăn cần được chia làm
nhiều lần trong ngày, tránh tình trạng ăn no quá hay để đói quá. Khi thực hiện
đúng theo nguyên tắc trên mà đường huyết ổn định thì không cần phải dùng Thu*c,
chỉ cần thực hiện đúng chế độ và thử đường huyết mỗi tuần 1 lần. Trường hợp
đường huyết vẫn cao, phải điều trị bằng insulin có tác dụng kéo dài và theo dõi
đường huyết mỗi ngày vào buổi sang lúc nhịn đói.
Về phía thai: bà mẹ được chăm
sóc khám thai mỗi 2 tuần một lần, cân nặng, đo huyết áp và xét nghiệm chức năng
gan, chức năng thận, phát hiện những bất thường khác để điều trị kịp thời, đánh
giá sức khỏe thai bằng siêu âm Doppler, siêu âm 4 chiều, đo monitoring sản
khoa, khi tuổi thai từ 36 tuần trở đi.
Trong lúc chuyển dạ: nếu
đường huyết mẹ ổn định, sẽ cho chuyển dạ tự nhiên theo ngả sinh *m đ*o, trừ
những trường hợp có chỉ định mổ lấy thai. Trong lúc chuyển dạ sinh, cần theo
dõi đường huyết mỗi 2 giờ/lần. Điều trị bằng insulin khi đường huyết tăng trên
6,8mmol/l.
Sau sinh: mẹ và bé cần được
theo dõi đường huyết, vì có thể có nguy cơ hạ đường huyết. Cần có chế độ dinh
dưỡng theo đúng nguyên tắc. Tiếp tục tầm soát bệnh lý ĐTĐTK sau tuần lễ thứ 6
trở đi, bằng cách tương tự sử dụng trắc nghiệm dung nạp đường 75g đường trong 2
giờ. Để có hướng điều trị tiếp.
Phòng ngừa
Bệnh lý ĐTĐTK chiếm tỉ lệ lớn
trong nhóm bệnh gây ảnh hưởng lớn đến mẹ và thai nhi, tác hại không chỉ ở bản
thân người mẹ mà gây hậu quả không nhỏ đến sự phát triển tâm thần và thể chất
cho trẻ sau này lớn lên. Vì vậy, các biện phòng ngừa hiện nay là một chương
trình cấp thiết và có tầm quan trọng cho tất cả các phụ nữ có kế hoạch có em
bé, đặc biệt là những phụ nữ ở nhóm nguy cơ. Sự cần thiết phòng ngừa nhằm không
mắc bệnh đái tháo đường hoặc hạn chế tối đa bệnh lý ĐTĐTK nhằm không gây hậu
quả cho mẹ và thai nhi: những chất dinh dưỡng có tác dụng chống lại cơ chế sinh
bệnh hoặc các rối loạn đi kèm với đái tháo đường giúp kiểm soát tốt bệnh đái
tháo đường, bao gồm chất xơ, có tác dụng làm chậm hấp thu glucose từ ruột, nên
chống lại sự tăng của đường huyết sau ăn, chất xơ có nhiều trong rau xanh, trái
cây không ngọt và đậu khô. Chất acid béo, có trong các loài cá biển như cá thu,
cá hồi, cá cơm và cá ngừ, có tác dụng bảo vệ hệ thống tuần hoàn, bởi chất
Eicosapentaenoie acid. Ngoài ra acid béo khác như Alpha Lipoic Acid (ALA), có
tác dụng tăng cường sử dụng glucose và cải thiện kiểm soát đường huyết, ALA có nhiều trong bông
cải xanh, trong giá đậu và đậu Hà Lan. Các loại vitamin như: E, C, nhóm B và
các loại muối khoáng như: kẽm, magie, có tác dụng rất tốt, cải thiện sức khỏe,
tăng cường khả năng miễn dịch, tăng cường tiêu thụ glucose giúp cho đường huyết
không tăng, kiểm soát tốt đường huyết.
Việc rèn luyện thân thể, thể
dục thể thao giúp cho cơ thể săn chắc, tránh béo phì, tăng cường sức khỏe, tăng sự tiêu thụ năng lượng, tạo nên đường
huyết không tăng, giảm được yếu tố nguy cơ.
BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN