Nhiều người ung thư xương, xương khớp hư hỏng nặng vẫn giữ được chi, hồi phục vận động nhờ thay khớp toàn phần, ghép xương nhân tạo tại Bệnh viện Tâm Anh.
Nguyễn Văn Tiến (15 tuổi, Hà Nội) đến khám bệnh trong tình trạng cứng khớp gối trái, gãy nẹp đầu dưới xương đùi, chân sưng đau, không đi lại được.
Tiến bị ung thư xương, đã được điều trị hóa chất và cắt bỏ khối u sát khớp gối và ghép một đoạn xương đồng loại cách đây 2 năm. Nhưng sau phẫu thuật, phần xương nẹp không liền, gối không gập duỗi được khiến em đi lại khó khăn.
Phó giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ trần trung dũng - giám đốc trung tâm phẫu thuật khớp - y học thể thao, bệnh viện đa khoa tâm anh cho biết, để triệt căn khối u của tiến 2 năm trước, các bác sĩ đã cắt đến 15 cm xương đùi, chỉ giữ lại 2 lồi cầu. đoạn xương thiếu hụt quá lớn, xương tự thân không thể đảm bảo cho việc ghép xương nên phải sử dụng xương đồng loại. tuy nhiên, sau ca mổ, xương đồng loại không liền, gãy nẹp, phần lồi cầu còn lại quá ít, mất khả năng gấp duỗi gối, chiều dài hai chân chênh lệch đến 5 cm, chân trái vẹo trong nên không đi lại được. lực dồn lên nẹp, mỗi khi bệnh nhân vận động khiến nẹp bị gãy gây biến dạng chân và rất đau đớn.
Ở những bệnh nhi tuổi thiếu niên đang trong giai đoạn phát triển xương như tiến, thách thức lớn nhất là tạo sự cân bằng chiều dài hai chân sau khi ghép xương. tuy nhiên, xương đồng loại rất khó liền, thậm chí không liền, do đó tỷ lệ phục hồi sau phẫu thuật khá thấp.
Theo bác sĩ dũng, với một số thể ung thư xương tương đối lành tính, không phát hiện tính chất di căn xa, lại đáp ứng tốt với hóa chất và xạ trị, chỉ định cắt cụt chi rất đáng tiếc, ảnh hưởng nhiều đến chức năng vận động chi thể, thẩm mỹ cũng như tâm lý của bệnh nhân. vì thế, kỹ thuật thay khớp và ghép xương bằng vật liệu hiện đại như kim loại titan, peek... giúp bệnh nhân không phải cắt cụt chi, vận động gần như bình thường. tuy nhiên, để thực hiện thành công kỹ thuật này, bên cạnh sự hỗ trợ của hệ thống trang thiết bị hiện đại, phẫu thuật viên cần am hiểu về giải phẫu và S*nh l*, chức năng của khớp háng, khớp gối. vì khi tháo bỏ toàn bộ xương, việc phục hồi dây chằng bám, gân cơ là yếu tố quyết định khả năng phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân.
"Nếu tính toán không kỹ, sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể bị trật khớp háng, trật khớp gối, nhiễm trùng, chức năng vận động của khớp không hồi phục và vẫn phải dùng dụng cụ hỗ trợ mới đi lại được, thậm chí phải ngồi xe lăn", Phó giáo sư Dũng nói.
Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh vào tháng 7 cũng vừa thực hiện cho bệnh nhân Nguyễn Thị In (52 tuổi, Hải Dương).
Phó giáo sư trần trung dũng đánh giá, với trường hợp dính cứng khớp khuỷu, trước đây phẫu thuật truyền thống chỉ có thể "đóng" cứng khớp khuỷu về tư thế khoảng 90 độ và bệnh nhân có thể thực hiện các động tác đơn giản hàng ngày nhờ cử động của khớp vai, còn khớp khuỷu không thể phục hồi. kỹ thuật mới thay khớp toàn phần với khớp khuỷu nhân tạo bằng vật liệu sinh học thế hệ mới đã trả lại chức năng vận động gần như hoàn toàn cho bệnh nhân.
Sau phẫu thuật, chị In phục hồi cử động sấp ngửa cẳng tay - đây là vận động rất quan trọng trong sinh hoạt hàng ngày; khôi phục đến 90% chức năng gấp duỗi khuỷu tay. Ba ngày sau mổ, chị In có thể vận động gấp - duỗi, sấp - ngửa bàn tay, điều mà hơn một năm qua chị chưa làm được.
Trên thế giới, phẫu thuật thay xương nhân tạo thực hiện rộng rãi từ những năm 80-90 nhưng vì phương pháp này rất phức tạp, dễ biến chứng gây mất máu, lỏng khớp, nhiễm trùng, lệch chiều dài chi, hỏng bộ khớp, trật khớp háng và gối... nên được chỉ định rất hạn chế. do đó, theo phó giáo sư trần trung dũng, việc các bác sĩ việt nam có thể thực hiện thành công các phẫu thuật thay thế xương, khớp bằng vật liệu nhân tạo thế hệ mới và công nghệ in 3d sẽ cứu hàng triệu người khỏi nguy cơ tàn phế vì ung thư xương, chấn thương thể thao, T*i n*n..., mở ra triển vọng mới cho ngành cơ xương khớp - chấn thương chỉnh hình nước nhà.
Ngọc An