Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6
Những chế độ ăn trị liệu đặc hiệu cơ thể được lập ra để tạo điều kiện cho xử trí y học các bệnh thường gặp nhất. Trong hầu hết các trường hợp, tư vấn với thầy Thu*c chuyên khoa dinh dưỡng là cần thiết để lập ra và thực hiện những thay đổi chính trong chế độ ăn. Người thầy Thu*c cần làm quen với những chỉ định cho chế độ ăn đặc hiệu và thành phần cơ bản của chế độ ăn để tạo thuận lợi cho việc tham khảo và tăng tối đa sự thực hiện của bệnh nhân. Chế độ ăn trị liệu là mọi quá trình khó thực hiện và không phải tất cả bệnh nhân đều có thể hợp tác đầy đủ. Đề nghị bệnh nhân ghi lại chế độ ăn trong 3 - 5 ngày có thể giúp hiểu được sự vận chuyển ruột của bệnh nhân.
Những chế độ ăn trị liệu có thể được chia thành 3 nhóm: 1. chế độ ăn thay đổi độ đặc của thức ăn; 2. chế độ ăn hạn chế hoặc thay đổi thành phần thức ăn; và 3. chế độ ăn bổ sung thành phần thức ăn.
Chế độ ăn toàn dịch
Chế độ ăn này cung cấp đầy đủ nước, 500 - 1000 kcal như đường đơn và một số chất điện giải. Chế độ ăn này không có chất xơ và giúp cho tiêu hóa hoặc hoạt động của ruột là tối thiểu.
Chế độ ăn lỏng hoàn toàn được áp dụng cho những bệnh nhân sau phẫu thuật tắc ruột, viêm ruột - dạ dày cấp, tắc ruột một phần, cũng như chuẩn bị cho các thủ thuật dạ dày ruột để chẩn đoán. Chế độ ăn này thường được dùng như là chế độ ăn đầu tiên cho bệnh nhân đã không ăn đường miệng trong thời gian dài. Bởi vì lượng năng lượng thấp và thành phần protein là tối thiểu nên chỉ được áp dụng trong thời gian ngắn.
Chế độ ăn lỏng
Chế độ ăn lỏng cung cấp đầy đủ nước và có thể được lập ra để cung cấp đầy đủ năng lượng và protein. Các vitamin, chất khoáng, đặc biệt là acid folic, sắt và vitamin B6, có thể không đủ và nên được dùng dưới dạng các chế phẩm bổ sung. Các sản phẩm sữa, xúp, trứng và ngũ cốc mềm cũng được dùng để bổ sung cho các dung dịch.
Các chế phẩm bổ sung đường uống có thể cũng được đưa vào chế độ ăn hoặc dùng đơn độc.
Chế độ ăn này có ít bã và có thể được dùng trong nhiều trường hợp thay cho chế độ ăn toàn dịch đã mô tả ở trên, đặc biệt là ở những bệnh nhân khó nhai hoặc khó nuốt, với tắc nghẽn một phần hoặc để chuẩn bị cho một số thủ thuât chẩn đoán. Chế độ ăn lỏng thường được dùng tiếp theo chế độ ăn toàn dịch để tiến tới chế độ ăn bình thường ở những bệnh nhân không ăn đường miệng trong thời gian dài.
Chế độ ăn mềm
Chế độ ăn mềm được đưa ra cho những bệnh nhân không thể nhai hoặc nuốt thức ăn rắn hoặc thô. Những thức ăn mềm được sử dụng và loại trừ hầu hết hoa quả và rau sống, bánh mì thô, ngũ cốc. Chế độ ăn mềm thường được sử dụng để trợ giúp cho quá trình chuyển từ chế độ ăn lỏng sang chế độ ăn thông thường ở những bệnh nhân sau phẫu thuật vả những bệnh nhân quá yếu hoặc răng quá tồi để ăn chế độ ăn thông thường.
Chế độ ăn mềm cơ học bao gồm các thức ăn được băm chặt, nghiền cũng như bất kỳ thức ăn nào mà bệnh nhân có thể nhai được. Những chế độ ăn này được sử dụng cho những bệnh nhân phẫu thuật vùng đầu, cổ, những bệnh nhân có các vấn đề về răng, chít hẹp thực quản, và những bệnh nhân khó nhai hoặc khó nuốt.
Chế độ ăn mềm có thể được lập ra để có được tất cả nhu cầu dinh dưỡng.
Nguồn: Internet.